Nhãn

Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện ký. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện ký. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2016

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000 - kỳ 16



HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)

Kỳ 16


Bùi Ngọc Tấn

Chúng tôi im lặng. Biết nói gì bây giờ. Một lúc sau Hằng Thanh chuyển đề tài:
– Trước Tết thầy giáo em sang Paris. Thầy là giáo sư thỉnh giảng ở bên ấy. Ba mươi Tết thầy đến nhà Thụy Khuê chơi, vẫn bình thường. Thế mà chỉ sau Tết mấy hôm, đến nhà Thụy Khuê đã thấy  Chuyện kể năm 2000 ở đấy rồi. Nhanh thế chứ. Thầy em đọc anh ở bên ấy. Những lần sau đến nhà Thụy Khuê, hai người chỉ nói về  Chuyện kể năm 2000 thôi.
Câu nói của Hằng Thanh càng làm tôi hiểu thêm tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Và cũng mang đến cho tôi nhiều niềm vui. Chuyện không chỉ bó gọn ở Hà Nội, ở Việt Nam nữa. Thời đại bùng nổ thông tin, mới lắm các đồng chí ạ! Người ta vẫn nói như thế mà không hiểu được điều mình nói. Ngăn làm sao được. Mong các vị hiểu rõ. Đừng như cái máy ghi âm. Đừng như con vẹt. Tính vẹt đang là bệnh phổ biến trong xã hội chúng ta, một căn bệnh nghiêm trọng đưa con người trở lại thời mông muội.
Bên cạnh niềm vui vì tập sách của tôi đã vượt vòng vây, chắc chắn sẽ được tái bản ở nước ngoài, được nhiều người đọc, lại là nỗi buồn, nỗi buồn lớn hơn nỗi buồn sách của mình bị đình chỉ phát hành: Vậy là tình hình vẫn nguyên như cũ. Một tình hình chúng tôi đã chờ đợi thay đổi quá lâu rồi! Không. Cũng có khác đấy nhưng chỉ là khác do tình thế, do áp lực. Có vậy tôi mới in được tập này. Khác trước thì tôi mới chưa bị bắt. Nếu không tôi lại vào xà lim rồi. Nhưng sao người ta vẫn sợ sự thật thế. Một sự thật cách đây đã hơn 30 năm vẫn không thể được nói tới, được nhắc lại. Một nhà nước sợ sự thật không thể là nhà nước mạnh. Một chính quyền sợ sự thật không thể là một chính quyền quyết tâm đổi mới. Hy vọng đặt vào rất ít, rất mong manh nếu không nói là hão huyền.

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000 - Kỳ 15


 HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)

Kỳ 15
 
Bùi Ngọc Tấn


Điện từ Hà Nội cũng dồn dập.
Tiếng Bầu cười giòn:
– Tôi mất tên rồi ông ơi. Điện thoại suốt ngày. Mình bảo Lê Bầu đây thì chúng nó bảo không, tôi gặp ông Lê Bàn cơ. Ông Lê Bàn có nhà không ông. Ông Lê Bàn bạn với Hắn ấy mà…
Còn Mạc Lân hét to:
– Tết này là tết của chúng mình. Ông đã làm vẻ vang cho tất cả. Nhiều thằng đến đây hỏi mượn. Tôi bảo không được. Còn phải đọc đi đọc lại đã. Nhiều điện thoại hỏi tôi về ông. Có một cú điện thoại vào lúc sắp đi ngủ: Anh Lân đấy à. Tiếng phụ nữ nhẹ nhàng. Anh đã đọc Chuyện Kể Năm 2000 của anh Bùi Ngọc Tấn chưa ạ? Vâng, Đọc rồi chị ạ. Đang đọc lần thứ hai. Anh ấy viết về anh như thế đấy: Con một nhà văn nổi tiếng nhưng không bao giờ nói về bố mình, tức là anh ấy nói anh sợ liên lụy nên không dám nói về bố anh, ông Lê Văn Trương. Tôi nghĩ ngay bọn đểu đây, bọn tâm lý chiến đây. Không giữ được, tôi văng ra một câu chửi tục “Đ. mẹ mày!” rồi dập máy. Từ bấy không thấy nàng gọi lại nữa. Với bọn du côn phải đối xử du côn ông ạ.
Anh cười, giọng cười rất Mạc Lân như Lê Bầu cười rất Lê Bầu vậy.
Vũ Bão không gọi điện. Anh viết thư. Thư đánh máy trên những tờ giấy điện báo anh thó được của bưu điện. Để giống như bức điện báo, anh thay những dấu chấm câu bằng “stop.”
Dàn nhạc Mộng Du đã chơi bài ouverture ([1]) stop sắp tới sẽ chơi tiếp chương hai và chương ba stop anh em vẫn tiếp tục khen Mộng Du stop mình đã đọc qua điện thoại cho Kiều Duy Vĩnh nghe những trang Bùi Ngọc Tấn viết về Kiều Duy Vĩnh stop chúc mừng thành công của Bùi Ngọc Tấn stop dù sao bản nhạc đã đến với người nghe stop…
Rất nhiều điện dởm dài ngắn. Bức “thư điện” đề ngày 25-2-2000 “phát lúc 7 giờ 30”, một bức điện rất nghịch ngợm, rất Vũ Bão thì ngay ngoài phong bì cũng đã lạ: Họ và tên người gửi Vừ A Páo. Họ và tên người nhận Pui Ngoc Tếnh 10 Tien Pien Phu Hải Phòng. Thế mà bưu điện vẫn chuyển đến nơi:

Hậu Chuyện kể năm 2000





HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)

Kỳ 14


Bùi Ngọc Tấn


Ngồi với các bậc huynh trưởng, Hằng Thanh mỏng mày hay hạt, bẽn lẽn như một thiếu nữ, chỉ biết cười. Chúng tôi ký vào vỏ chai uýt-xki đã cạn và giao cho Luyến đem về làm kỷ niệm. Chúng tôi tra hỏi Hằng Thanh về đề tài luận văn thạc sĩ của Hằng Thanh. Hằng Thanh nói:
– Em làm về Kiều.
Chẳng biết Tạo nói hay rượu nói:
– Luận văn về Kiều của em phải nói đến bao cao su. Không có là thiếu. Đấy, Kiều lăn lóc là như thế nhưng có mang bầu đâu.
Phải đến ba giờ chiều bữa ăn mới kết thúc. Trở về Hải Phòng tôi càng mong sách ra hơn lúc nào hết và lại cố quên thời gian bằng cách viết tiếp, cầy tiếp bài viết về Nguyên Bình, cố vượt qua đoạn khó nhất: Bình hoàn toàn từ bỏ công việc viết lách và cả chuyện ái ân, như một tu sĩ rời bỏ cõi đời, đi vào một lĩnh vực mà tôi mù tịt, với những thuật ngữ như khí công động, khai mở luân xa, chữa bệnh từ xa, rồi khơi dậy những tiềm năng của con người để sống, để tự chữa bệnh... Nhất định không nghĩ đến tập tiểu thuyết của đời mình chắc giờ đây đang được vận hành trong dây chuyền của nhà in, và lúc nào cũng nơm nớp một sự cố nào đó xẩy ra, một tin tức rụng rời nào đó sẽ đến. Thì lại có điện thoại. Chuông reo. Chuông reo vào lúc mười giờ đêm. Chuông reo lúc đêm khuya bao giờ cũng làm tôi giật mình.
– Em đây.

Đã thuộc giọng Luyến, tôi càng hoảng. Chắc chắn tin tức chẳng lành. Mà chẳng lành thật.
– Em đánh mất ảnh của anh rồi. Cả hai ảnh. Em đưa xuống nhà in. Bây giờ người ta để đâu tìm không thấy.
Tôi nghĩ ngay đến chuyện khác còn quan trọng hơn ảnh. Không có ảnh, chẳng sao:
– Đoạn trích in ở bìa bốn còn không?
Tôi hỏi mà lòng lo ngay ngáy. Bởi vì đó là những dòng chữ đã được giám đốc Bùi Văn Ngợi ký duyệt và tôi sợ rằng khó được duyệt lại lần thứ hai.
– Còn. Em vẫn giữ đây. Cả chữ anh Ngợi ký. Để có sách sớm, sáng mai em phải có ảnh xuống nhà in. Chín giờ mai em chờ anh ở nhà xuất bản.
Tôi chấp hành lệnh Luyến vô điều kiện. May. ảnh dự trữ tôi vẫn còn và vẫn nhớ nơi cất giữ. Sớm hôm sau tôi lên. Đó là một sáng Thứ Bẩy trước tết Canh Thìn. 23, 24 tháng Chạp gì đấy. Lại ô tô. Đường 5 đã là con đường đẹp nhất cả nước. Gió lọt qua khe cửa mở hé phía sau hất ngược lên. Buốt gáy. U cả đầu. Phải quay lại bảo người ngồi ghế sau đóng chặt cánh cửa kính. Trong ô tô “chất lượng cao” tôi cũng phải trùm cái mũ len tím than mới mua ở cổng nhà máy Len, kín mũi kín mồm kín tai chỉ để hở hai con mắt. Xe ôm năm đồng — nghìn. Thả tôi xuống 62 Bà Triệu. Lại mưa lắc rắc. Càng rét. Tôi lễ phép lột mũ, hỏi anh thường trực: Thưa anh, chị Lam Luyến từ sáng đến giờ đã đến đây chưa ạ thì được trả lời là chưa. Nhìn đồng hồ. 9 giờ kém 10. Cái đồng hồ của tôi có thể nhanh vài ba phút. Rét tím tái, run lập cập, tôi tạt vào một ngõ gần đấy tránh gió và hỏi bà hàng nước vỉa hè một chén nước trà nóng. Cầm chén trà, run. Nước sánh cả ra tay. Rét quá. Gió bấc thông thốc vào ngõ. Chén nước nóng trào xuống áo khi tôi đưa nó lên miệng. Không sao giữ yên được chén nước. Tay run. Chân run. Người run.
– Bà cho điếu ba số.
Tôi mới cai thuốc. Cai lần thứ bao nhiêu rồi. Đã quyết không hút lại nữa rồi lại hút. Điếu thuốc cũng chẳng làm ấm lên bao nhiêu. Đường Bà Triệu đã tấp nập hoa đào. Năm ấy đào nở sớm trong những ngày giữa tháng ấm áp, nên dù cuối tháng giở giời giá buốt Hà Nội vẫn đầy ắp hoa đào. Đào năm nay rẻ. Bà hàng nước nói vậy. Một người bán đào ghé vào quán nước trong hẻm chào tôi:

Hậu Chuyện kể năm 2000 (kỳ 12)




HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)

Kỳ 12


Bùi Ngọc Tấn


Đúng là khó thật. Bởi vì một ngôi biệt thự như vậy không thể trao lại để nó là tài sản của một người dân thường nào đó. Lại càng khó khi tôi nghe người ta nói ngôi nhà ấy đã được chia cho hai ông Xuân Thuỷ và Nguyễn Thành Lê, cả hai vị này đều đã bán rồi. Cuộc đời luôn là như vậy. Mỗi người một số phận. Trong số những chiến sĩ tình báo của ta có những người chói lọi vinh quang như ông Nhạ, ông Ẩn, những người cuối cùng còn được hưởng ít nhiều quyền lợi tinh thần, vật chất — dù vẫn bị đối xử đầy cảnh giác cách mạng, bao vây, theo dõi… Cũng còn nhiều người chưa tiện ra ánh sáng. Có người bị quên lãng trong bóng tối. Nhưng chắc chắn hiếm người như anh Phổ. Tận tụy trung thành với cách mạng. Rồi bị cách mạng đầy ải gần hai mươi năm. Và cuối cùng khi mắt loà sắp chết, được minh oan trong bóng tối. Những người như anh cần phải có một tượng đài. Một tượng đài để mãi mãi ghi lòng khắc cốt không chỉ nỗi đau của một con người, nỗi đau của cả một dòng họ, mà còn để nhắc nhở từ nay không bao giờ được để xẩy ra những thảm cảnh tương tự.
Trong khi chưa có tượng đài cho Nguyễn Văn Phổ, tôi muốn giữ nguyên tên anh như một bàn thờ tưởng niệm anh mà không được. Cao Giang kiên quyết không đồng ý, vì đây là tiểu thuyết, anh nói vậy. Anh còn đọc cho tôi nghe câu chuyển tiếp cho mạch truyện khi Nguyễn Văn Phố không còn là con Nguyễn Văn Vĩnh, không còn là anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Nhược Pháp.( [1])
 Thế là tôi phải đổi hết tên bè bạn, chỉ còn duy nhất một tên Dương Tường. Nhưng tôi nghĩ nhiều người đọc nó vẫn nhận ra nguyên mẫu. Chẳng qua tôi muốn có một văn bản chân thực của một thời. Tôi muốn nhấn đến tính xác thực không ai chối cãi được của quyển tiểu thuyết. Cũng là một lời nhắn nhủ các nhà văn rằng các bạn ơi, các bạn bịa đặt ra nhiều điều giả dối quá chừng. Rồi cứ đi tranh luận với nhau về những học thuật cao siêu, hội thảo toàn những đại trí thức, đại văn hào, đầy suy tư trách nhiệm, tổng kết thành những cẩm nang chế tạo tiểu thuyết hay, mà quên mất điều cơ bản: Phải chân thực. Muốn chân thực phải dũng cảm. Lại càng phải dũng cảm khi nền dân chủ nước ta còn đang ở bước phôi thai.
Tôi mang bản thảo về Hải Phòng, sửa ngày sửa đêm với bao hy vọng. Không chỉ sửa tên người mà sửa cả tên đất. Để không chỉ định một tỉnh một thành phố, một địa phương nào cả. Như bến Bính thì sửa thành bến Tắm, Thuỷ Nguyên thì đổi thành Thanh Nguyên…Vừa sửa vừa nghĩ giờ đây chẳng ai được coi là nhà văn tiêu biểu cho một vùng đất nào. Như Nguyên Hồng từng được coi là nhà văn của những người vô sản lầm than Hải Phòng. Cái ông thị trưởng, ông đốc lý Hải Phòng ngày trước không đưa Nguyên Hồng vào tù, ra toà về tội đã vu cáo, bịa chuyện nói xấu thành phố ông ta cai trị thì cũng là lạ thật...

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000 (Kỳ 11)




HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)

Kỳ 11


Bùi Ngọc Tấn


Khoảng gần một tháng sau, tôi lại nhận được điện thoại của Luyến từ Hà Nội. Chỉ nghe mấy tiếng “a lô,  a lô” của Luyến tôi đã cảm thấy ẩn chứa một niềm vui kìm nén chỉ chực bùng ra. Anh có việc gì lên Hà Nội không, qua em. Nhiều tin đáng mừng. Chúng tôi đã thống nhất với nhau chỉ nói rất vắn tắt qua điện thoại. Cũng như tôi luôn nhắc Luyến tuyệt đối giữ bí mật bản thảo, chỉ những người trực tiếp đọc và duyệt được giữ thôi. Và mỗi khi đọc xong phải cho vào tủ khoá ngay. Sự nhắc nhở này về sau tôi mới biết là vô ích. Nước đổ đầu vịt. Luyến đã phô-tô nhiều bản đưa cho nhiều người. Vì yêu tập bản thảo, Luyến khoe với khá đông bè bạn, thậm chí còn đọc qua điện thoại cho một người bạn trong Đà Nẵng, tốn khá nhiều tiền cho bưu điện.
Tôi lên Hà Nội. Hà Nội luôn hấp dẫn tôi. Hầu hết các bạn chí cốt của tôi đều ở Hà Nội. Lên Hà Nội, tôi có thể nhận biết bao thông tin mà ở Hải Phòng tỉnh lẻ tôi không có được. Giờ đây tôi lên Hà Nội với niềm vui gặp bạn cộng thêm hy vọng về bản thảo nữa.
Xuống xe ô tô ở chân cầu Long Biên, nhẩy xe ôm tới Bà Triệu. Phố Bà Triệu rợp tán lá những cây cổ thụ thân thiết. Bao nhiêu kỷ niệm. Những đêm xuân mưa bụi, tôi và Vũ Lê Mai đạp xe thong thả trên phố vắng, nghe mưa trên tóc, những tối hè đi dạo cùng vợ tôi khi ấy còn là bạn là em, tiếng guốc trên hè như tiếng nhạc. Và tối đầu tiên ra tù về tới Hà Nội cũng đi trên con đường rợp lá xà cừ, lá sấu này. Đây rồi. Căn nhà 64 Bà Triệu. Đã bao nhiêu năm mới lại đặt chân tới đó. Ngôi nhà đầu tiên tôi sống và làm việc khi rời những gian tập thể của Đội Thanh Niên Xung Phong, bắt đầu cuộc đời làm báo viết văn. Tại ngôi nhà này, đời rộng mở trước mặt tôi. Tôi bước vào và thấy nó lạ lẫm làm sao dù vẫn mang số 64. Thấp bé, cũ kỹ, nheo nhếch. Nhưng tôi vẫn nhận ra. Tôi ngủ ở phòng này. Cái tin đầu tiên tôi viết là ở đây. Bài bút ký đầu tiên dài hai trăm dòng tôi viết là ở đây. Từ đây đi nhà hát Nhân Dân nghe Khánh Vân, Xuân Mai hát. Ăn Tết năm 1955 ở đây. Mồng 1 Tết tôi ngồi cho nữ hoạ sĩ Thục Phi ký hoạ, rồi hai chúng tôi đánh bi như những đứa trẻ...

Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000 (kỳ 10)



HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)

Kỳ 10


Bùi Ngọc Tấn


Trở lại với bản thảo  Chuyện kể năm 2000.
Tôi đã bị công an Hải Phòng tịch thu khoảng 1500 trang bản thảo — hoàn toàn viết theo trường phái tụng ca — nên lần này tôi rất cảnh giác. Ngoài bản phô-tô của nhà xuất bản Hà Nội mà Lê Bầu thực hiện và đưa cả cho tôi, tôi còn hai bản đánh máy. Tôi gửi bản phô-tô ở nhà Nguyên Bình trên Hà Nội. Một bản đánh máy tôi cho vào một túi giả da có khoá kéo để chống dán và con dài đuôi, đem gửi anh Thành, anh thứ hai tôi.
Sự cẩn thận ấy không thừa. Chị Hoàng Ngọc Hà cho tôi hay: Công an đã biết có một bản thảo viết về nhà tù gửi đến chị. PA25 đến gặp chị, hỏi về tập bản thảo. Chị bảo có. Và lấy ngay từ tủ sách của nhà xuất bản tập tiểu thuyết viết về nhà tù của... Mỹ đã in. Họ bảo không, quyển Mộng Du cơ. Chị lại lấy ra quyển Mộng Du nào đó của nước ngoài cũng đã được dịch in.
Trong nhà tôi chỉ có một bản. Tôi “đánh bóng mạ kền” bản ấy mỗi khi rỗi rãi. Với cái máy chữ của Hoàng Hưng gửi từ thành phố Hồ Chí Minh ra cho, tôi mổ cò những đoạn sửa, cất đi một bản để ghép vào bản gửi anh Thành tôi. ([1]) Tập tiểu thuyết của tôi sau này khi in ra, được các nhà phê bình nhận xét viết theo phương pháp đồng hiện. Thú thật khi viết nó, tôi không nghĩ đến phương pháp nào hết. Mở đầu truyện là một anh tù được tha, được về với gia đình, về với xã hội. Nhưng nhà tù, trại giam, xà lim cứ theo anh ta từng bước, ám ảnh không rời. Những ngày ở tù, những người bạn tù, những chuyện tù cứ trở về bám lấy anh, ăn ngủ cùng anh. Cả những ngày anh còn là một người bình thường trước khi bị bắt, trước khi đi tù cũng về cùng anh. Lối viết ba kiếp sống cùng một lúc, dích dắc thời gian, dích dắc không gian này bắt tôi phải thật nhuyễn trong lúc chuyển ý, những đoạn chuyển phải thật tự nhiên để dắt bạn đọc theo mình mà bạn đọc không biết đã rẽ vào kiếp khác của nhân vật từ lúc nào. Những đoạn chuyển ý và cả những khúc ráp mối khi quay trở lại cũng vậy. Một công việc khó khăn nhưng cũng thật hấp dẫn. Nó bắt tôi cố gắng tối đa, phải “đồng hiện” suốt non nghìn trang tiểu thuyết và không được lặp lại cách làm. Hình như tôi đã đạt kết quả. Một bạn viết văn bảo tôi:
– Những mối hàn lắp ghép của anh không một vết gợn. Nó cứ phẳng lì.

Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000



HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)

Kỳ 9


Bùi Ngọc Tấn

Đinh Chương và tôi đều phải rời cơ quan báo, đi cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp. Đến lúc ấy chúng tôi mới thực sự hiểu mình đã là những con mồi của nhà tù đói khát, là vật phẩm của ông giám đốc công an Hải Phòng muốn có cái lễ biện lên ông Lê Đức Thọ trong hoàn cảnh thiên tải nhất thì đấu tranh chống xét lại này, để được lọt mắt xanh, đạt được một bước ngoặt trên con đường “phục vụ cách mạng”
Mùa đông năm 1967 chúng tôi về một làng ở Thủy Nguyên — Phả Lễ hay Phục Lễ, tôi không nhớ — học tập chính sách cải tiến quản lý hợp tác xã để trở thành anh cán bộ Đội. Nông thôn ngày ấy cực kỳ nghèo đói. Tường đất. Sân đất. Mái rạ mỏng kẹt. Nhà nọ nhìn sang nhà kia thông thống. Chúng tôi được một người trong ban tổ chức lớp học đầy nghi vấn xếp ở một nhà chỉ có hai mẹ con, bà mẹ già và cô con gái. Ăn tập trung ở bếp, còn ngủ trên một cái giường gian bên, đầu giường gần sát bàn thờ gian giữa. Đã là những con thú bị săn đuổi, chúng tôi rất cảnh giác. Đặt ba lô chăn màn xuống giường, chúng tôi quan sát chung quanh, quan sát gầm giường. Không có gì đặc biệt. Nhìn dưới gầm bàn thờ: Một cái hòm gỗ mới tinh đánh dầu bóng đỏ au, rất lạc lõng với đồ dùng trong nhà cũ kỹ bụi bặm. Phải là một nhà khá giả mới đóng được một đồ mớp thế này — dù nó chỉ to gấp hai gấp ba, bốn cái hòm cắt tóc, bởi gỗ thời đó cực kỳ quý hiếm. Không chỉ đỏ au, nó còn được khóa kỹ, chiếc khóa đồng mới tinh bóng loáng, hoàn toàn không ăn nhập gì vói đồ đạc trong nhà. Chính đây rồi. Không nghi ngờ gì nữa.

Thứ Tư, 16 tháng 9, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000 (kỳ 8)



HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)
Kỳ 8

Bùi Ngọc Tấn


Chữ của tôi là tiếng thở dài của những người dưới đáy đến thẳng trái tim tôi, giản dị, âm thầm, khắc khoải, nặng trĩu. Là những chuyến đi biển dài ngày, lên bờ vẫn thấy mình đu đưa như còn trên sóng gọi là say đất cộng với 5 năm tù dài hơn cả kiếp người, khi được tha nhìn ai cũng quen quen ngờ ngợ như gặp lại bạn tù trong trại, để rồi chiết xuất được hai tiếng “say tù.” Hai tiếng kết tinh tình yêu cuộc sống và nỗi trầm luân cay đắng của tôi. Nói rộng ra, tất cả sáng tác của tôi đều là hợp chất của hai thành tố ấy, càng đắm đuối càng cay đắng, càng cay đắng càng đắm đuối. Chữ là kinh nghiệm sống, là bầu khí quyển của tôi, tôi hít thở, ngụp lặn, nhấm nháp nghiền ngẫm. Giống Dương Tường, tôi ăn ngủ với chữ như với người tình một thuở. Tôi gọt giũa, lật lên lật xuống, vuốt ve ngắm nghía. Tôi ủ chữ trong tim, tôi ngậm chữ trong miệng, thì thầm với chữ và đọc to lên. Có những chữ như ảo ảnh, ẩn hiện trong sương, một dáng hình trong mơ, luôn giữ một khoảng cách không thể vượt qua. Nó làm tôi mất ăn, mất ngủ, ngơ ngẩn như người bị phụ tình. Lại có những chữ không hề nghĩ tới, vụt rơi vào trang giấy ngay trước mắt như một sự tự tìm đến hiến dâng, món quà ban tặng của Thượng Đế. Chữ với âm thanh trầm bổng — điều đặc biệt của tiếng Việt — lúc như viên chì lăn tròn vào lòng người, lúc trải rộng như cửa sông đổ ra biển cả, nhịp nhàng uốn lượn uyển chuyển như múa, như hát, một hòa thanh nhỏ cho từng câu và một tổng phổ trong cả tập truyện dài.

Thứ Ba, 15 tháng 9, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000 (tiếp theo)

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)
Kỳ 7

Bùi Ngọc Tấn   


Thời ấy điện là thứ xa xỉ. Chỉ có một tí vào buổi tối nhưng cũng cách nhật. Điện hầu như chỉ thực hiện một chức năng nhiệm vụ để mọi người không quên xử dụng công tắc  như cách nói của Nguyên Bình.Và làm người ta nhức nhối thần kinh khi từ nhà mình quạt nan phì phạch tối thui mồ hôi ròng ròng, con khóc ời ợi, muỗi vo ve bên tai, nhìn sang những nhà ưu tiên có điện sáng trưng quạt máy vù vù, cát-xét oang oang, fi-dơ làm đá chạy suốt ngày đêm như nhìn sang một hành tinh khác, chứng kiến cuộc sống một loài sinh vật cao đẳng dù họ chỉ là một cán bộ uỷ ban, một chủ tiệm giải khát hay một hộ làm nghề uốn tóc, một anh làm toà án, một anh thuộc Sở Điện Năng vẫn thường được mọi người gọi bằng cái tên đầy “tình cảm”: Sở Điên Nặng.
Tôi thắp đèn dầu ngồi viết. Sáng ra rửa mặt, ngoáy mũi, khăn mặt đen sì vì khói dầu. Không điện nghĩa là không quạt. Mồ hôi rỏ giọt xuống bản thảo. Chân tay dính bết. Không sao. Tôi không phe phẩy chiếc quạt nan mà ngồi lì cả tiếng đồng hồ trên sàn trước ngọn đèn dầu và xếp giấy trắng. Viết văn với tôi giống một công việc khổ sai. Lại cũng giống như thi đấu thể thao. Phải căng hết sức ra luyện tập. Kiên trì ngày này sang ngày khác. Không được lười. Có đến một vạn lý do để tặc lưỡi gác công việc lại. Thành tích là từ những nỗ lực rất nhỏ. Không phải tự nhiên mà đạt được tới cái trần của mình. Ở xí nghiệp, tôi có bàn để viết. Còn về nhà, bàn viết của tôi là cái ghế xa lông gỗ gõ tôi gửi anh em tầu cá mua từ Hố Nai chở ra, niềm tự hào một thời của gia đình tôi, nó làm sáng cả căn buồng. Tôi ngồi bệt xuống sàn lim. Tôi thó vài chục tờ giấy Bãi Bằng của xí nghiệp đem về nhà. Tôi viết bằng bút bi — cũng của xí nghiệp phát. Tôi miệt mài cặm cụi tới khuya. Vợ tôi buông màn nằm ngủ dưới sàn ngay sau lưng tôi. Khi thức, phe phẩy quạt cho tôi. Rồi thiếp đi. Nửa đêm chợt tỉnh, thấy tôi vẫn lụi cụi cắm mặt vào xếp giấy, vừa quạt cho tôi vừa cằn nhằn:

Thứ Hai, 7 tháng 9, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000 (kỳ 6)


HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000

(Thời biến đổi gien)

Kỳ 6



Bùi Ngọc Tấn   



       Thế mà bây giờ tôi đang viết. Đang viết chuyện tù. Đang viết và đang viết về một đề tài cấm kỵ nhất, độc đáo nhất, chưa ai từng viết. Đành rằng đã có nhiều người viết và gọi người đến nhà nghe mình kể để viết chuyện tù của mình. Nhưng đấy là chuyện trong nhà tù đế quốc, chuyện những nhà cách mạng dứt bỏ gia đình hy sinh xương máu, lật đổ chế độ áp bức bất công tàn bạo để đất nước, nhân dân bước vào cuộc sống mới. Dòng văn học tù đầy dường như đã kết thúc với những hồi ký trong nhà tù đế quốc với những nhân vật được thần thánh hoá, lung linh huyền ảo, những cứu tinh đã sang trang cuộc sống cho đất nước, cho nhân dân.

Và tôi, chính tôi là người viết tiếp dòng văn học tù đầy tưởng đã chấm hết ấy. Tôi viết về nhà tù trong chính cuộc sống mà người ta nghĩ rằng, nói rằng, tưởng rằng đã bị tiêu diệt trong cuộc sống mới và không bao giờ còn trở lại. Tôi viết về những khổ đau oan khuất vẫn tiếp diễn, sinh sôi và phát triển, những điều là khẩu hiệu, là mục tiêu để cách mạng giương cao ngọn cờ, tập hợp vận động lôi kéo nhân dân tiêu diệt, và tưởng đã tiêu diệt hoàn toàn, nhưng hoá ra vẫn còn nguyên như cũ — và cho đến bây giờ đã hơn cũ, vượt cũ rất xa — chỉ thay đổi diện mạo, thay đổi ngôn ngữ, thay đổi y phục mà thôi. Le roi est mort, vive le roi. Đức Vua băng hà, Đức Vua vạn tuế. Trong xà lim tôi đọc đi đọc lại câu ấy trong tập Anna Karenina, tập sách Dương Tường dịch và tặng tôi mà buổi sáng 8-11-1968 đến bắt tôi, thấy bộ sách để ở đầu giường, người cảnh sát đã bảo tôi “mang vào trong ấy mà đọc.” Nó mãi mãi là chân lý. Những thông tin tôi đưa ra sẽ hoàn toàn mới, chưa từng có trong văn học cách mạng. Tôi đang phơi ra ánh sáng một mảng hiện thực đã tồn tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại lâu dài. Còn tồn tại lâu dài. Tồn tại và phát triển. Chúng xây nhà tù nhiều hơn trường học. Bây giờ trường học nhiều hơn nhưng nhà tù cũng nhiều hơn. Tôi đang viết về một sự phát triển xoáy trôn ốc của lịch sử, của tự do đây.

Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000 (kỳ 5)



HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)
Kỳ 5


Bùi Ngọc Tấn                                             

Tôi bắt đầu viết văn trở lại vào tháng 3 năm 1990, hai tháng sau khi mẹ tôi mất. Tôi không phải là nhà sử học ghi nhớ chính xác ngày tháng, các sự kiện trên thế giới trong mùa xuân năm ấy. Chỉ biết rằng khoảng thời gian trước và sau năm 90, những sự kiện vô cùng trọng đại đối với nhân loại đã xẩy ra.
Đầu thế kỷ 20 là những ngày rung chuyển thế giới ở nước Nga. Cuối thế kỷ 20 là sự hóa giải sự kiện rung chuyển thế giới ấy cũng ở nước Nga. Cuộc thí nghiệm tìm con đường đi của nhân loại đã có kết luận: Đây là cuộc thí nghiệm vô trách nhiệm với chi phí gần trăm triệu mạng người và đã thất bại. Một chủ nghĩa hấp dẫn bởi chất lãng mạn không tưởng, đáp ứng được ước mơ của những người bị áp bức bóc lột, nghèo đói nhưng đã bộc lộ tất cả tính chất phản khoa học tàn bạo núp dưới những mỹ từ đẹp nhất của chủ nghĩa nhân đạo và của khoa học. Tôi mong đợi từng ngày và mong đợi quá lâu rồi, sự sụp đổ của cái trật tự bóp chết con người, bóp chết tự do, sự dối trá thống trị, cái trật tự làm thành một bầu trời đá xám úp chụp lên đầu từ Việt Nam tới tận Cộng Hòa Dân Chủ Đức! Cái trật tự xã hội tôi đã sống gần trọn đời và ghê sợ nó. Cái trật tự mà một thời tôi đã từng tin tưởng và tự hào về nó, xây dựng nó, bảo vệ nó. Ngay khi đã bị chính bánh xe tàn bạo của nó nghiền nát. Tôi tự cười mỉa khi nghĩ đến dạo mới bị tù, biết một người tù chuẩn bị trốn trại, đã báo cáo ban giám thị bởi không thể để lọt một tên tội phạm ra ngoài xã hội được! Và khi đã lên Vĩnh Quang, sau 4 năm tù mõm ra rồi, nhận suất cơm khoai dầm nát và hai muôi nước canh cá khô mục, tanh và khắm đến lộn mửa, tôi vẫn ngạc nhiên tự hỏi: “Nhà tù mình cũng cho tù ăn cá mục?”

Thứ Ba, 25 tháng 8, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000



HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)
Kỳ 4


Bùi Ngọc Tấn                                             



Ăn đói mặc rách, các con tôi cứ lớn lên, cứ là học sinh giỏi, ba đứa đỗ đại học. Riêng Giáng Hương, quán xuyến mọi việc trong gia đình, ít có thời gian học tập, chỉ đỗ cao đẳng.([1]) Chúng là tất cả cuộc sống của tôi, là những gì tôi phải cố lo toan trong khi mình bị nhấn chìm và chỉ là một thứ phó người. Sự trưởng thành của chúng còn như một thách thức những người mà tôi có thể chỉ đích danh, sau khi bỏ tù tôi còn muốn vợ chồng tôi ngồi vỉa hè vá xe đạp, bán nước chè chén, các con tôi bơm xe hay móc túi. Mỗi thành công của vợ chồng tôi, của các con tôi đều nằm ngoài ý muốn của họ. Các con tôi đều là những người tử tế, những người lương thiện. Vâng. Chúng đều tử tế và lương thiện. Đó là niềm tự hào của vợ chồng tôi.
Rồi chúng lấy vợ lấy chồng.
Giáng Hương là đứa xây dựng gia đình đầu tiên. Buổi tối sau khi nhà trai đến đón dâu, gian phòng hai mươi mét vuông gắn bó cùng tôi bao nhiêu năm, quen thuộc từng miếng vôi tróc trên tường, từng tia nắng chiếu qua cửa sổ chênh chếch di chuyển theo mùa bỗng nhiên trống hơ trống hoác. Tôi khóc. Giáng Hương không còn trong nhà tôi nữa. Giáng Hương đã được hoài thai từ đây, tập đi từ đây, lớn lên từ đây. Đã đưa đôi vai non nớt của mình chia xẻ gánh nặng cuộc sống với chúng tôi từ đây. Từ nay tối tối lên giường nằm ngủ, không nhìn thấy Giáng Hương tắt đèn rồi sau đó bóng con gái vén màn bước vào và nằm xuống sàn. Bao giờ Giáng Hương cũng là người đi ngủ sau cùng và là người dậy sớm nhất nhà, vào bếp, nhồi mùn, nấu cơm, chuẩn bị bữa sáng. Để đến khi cả nhà dậy đã có cơm ăn, rồi mỗi người một phương, con cái đi học, bố mẹ đi làm. Những bữa cơm ăn trong đèn dầu lúc mờ sáng. Cũng có khi là cơm hâm tuỳ theo giờ làm việc ở cơ quan hay xí nghiệp. Cho cơm nguội vào sanh, lấy muôi miết cơm vào đáy sanh, chiếc sanh nhôm nhà tôi đáy bằng đã có đáy hình quả dưa từ những nhát miết ấy của Giáng Hương khiến tôi nhớ đến câu thơ của ai đó viết về độ dài của cuộc chiến tranh ở nước ta: Khẩu tiểu liên đã mấy lần ngắn lại.

Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000 (kỳ 3)

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)
Kỳ 3


Bùi Ngọc Tấn                                             


Khi chuyển đi trại trung ương, tôi đã dúi cho một người bạn tù tin cậy cả ba quyển và dặn anh ta cố giữ, đừng đánh mất. Được tha về nhà, tôi không ngờ lại gặp chúng, tuy rằng thiếu đi một quyển. Thế là trong nhà tôi vẫn có hai tập sách. Nó đã vào tù cùng một ngày với tôi, cùng chia xẻ đắng cay hoạn nạn, chia xẻ thân phận xà lim tối tăm với tôi, im lặng trò chuyện cùng tôi, giúp tôi giảm được bao nhiêu đòn tra tấn của những phút giây ngục tối.
Vợ tôi gói kỹ hai quyển sách cất vào trong tủ như vật gia bảo. Đó là những người bạn tù chung thuỷ của tôi! Đã rất nhiều bạn tù chết, nhưng người bạn tù có ghi tên một đại văn hào này vẫn sống dù là một đời sống thực vật: Nằm im trong tủ. Thú thật là tôi không muốn giở ra xem lại. Bởi những dòng chữ từ cựa gà chiếc bút máy Pilot thôi ra tí nước uống của tôi, thứ chữ li ti bợt bạt thoi thóp ấy cứa vào lòng tôi. Nó làm tôi sống lại những phút giây căm phẫn đắng cay tuyệt vọng. Nó làm tôi đau lại nỗi đau của bố mẹ tôi giờ đây khuất núi, nỗi đau của vợ tôi, của các con tôi. Tôi cũng không muốn các con tôi đọc nó. Đừng làm tổn thương thêm những tâm hồn non nớt trong trẻo của chúng. Đôi mắt chúng, trái tim chúng đã trúng thương rồi.
Tôi cố giữ sự trong sáng trong đôi mắt nhìn đời của các con tôi, nhưng đó là cuộc chiến đấu không cân sức, đúng hơn, cuộc chiến đấu trong tuyệt vọng. Bởi chính quyền đâu muốn thế. Họ tìm mọi cách để vợ chồng tôi, các con tôi luôn nhớ mình là ai và không bao giờ được phép quên điều đó. Những buổi gọi bố rồi gọi con ra đồn khai lại lý lịch. Những giấy tờ của các con tôi trong khi đi học cần được chính quyền, công an chứng nhận đều bị ngâm cứu, kéo dài từ ngày nọ sang ngày kia, nhiều lần lên đồn xuống phủ khiến chúng tôi lo lắng, mất ăn mất ngủ và thêm một lần thấm thía thân phận của mình, thêm một lần ngấm cụm từ “triệu lần dân chủ hơn”.
Hơn mười năm sau, khi cháu Bùi Quang Dũng học đại học Hàng Hải, nhà trường có chủ trương tất cả sinh viên đều làm hộ chiếu. Tôi biết điều gì sẽ đến với cháu, nhưng chẳng lẽ bảo con đừng khai, đừng nộp hồ sơ lên công an. Quả nhiên hồ sơ cháu được Công An Phường ghi: “Bố đi tù 5 năm về tội phản tuyên truyền”. Tôi đã không giữ được bình tĩnh, xé ngay tờ đơn có lời nhận xét của các nhà đương cục, ném vào sọt rác — Thật là một sai lầm. Nếu bây giờ còn, làm một cái scan kẹp vào giũa những trang này có thích không.

Chủ Nhật, 2 tháng 8, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000 (tiếp theo)



HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)
Kỳ 2


Bùi Ngọc Tấn
                                                           


Tôi đã quên tên tôi dưới mặt trời
Quên tuổi tôi cắm sâu lưỡi dao năm tháng
Thời gian băng hà sọ não tôi
                                                  — Bùi Ngọc Tấn


T
ôi ra tù — từ trại Vĩnh Quang — tháng 4 năm 1973. Một năm cuộc sống khó khăn không hình dung nổi, và càng không hình dung nổi trong những năm tiếp theo.
Khi tôi kêu lên:“Các ông ấy bần cùng hóa nhân dân ghê quá”, Nguyên Bình nghiêm mặt bảo tôi:“Cuộc sống này gần với cuộc sống loài vật. Đâu phải cuộc sống con người”.
Bình nói đúng. Cuộc sống này là một sự đầy đọa.
Hãy nghe một câu trong tham luận của một thuyền trưởng Liên Hợp đánh cá Hạ Long tại đại hội công nhân viên chức: “Tầu cá về, người xuống như dòi”.
Câu đó nói lên tất cả! Hơn thế. Biết bao nhiêu người thèm được như chúng tôi — nhân viên một xí nghiệp thực phẩm — ao ước là dòi!
 Đã ba mươi năm chiến tranh.
Từ lúc tôi còn là một thiếu niên. Đến khi ấy đã là quá nửa đời. Con người chỉ là công cụ phục vụ cho cuộc chiến. Và phải chiến thắng. Không thể thất bại. Dù phải đốt cháy dẫy Trường Sơn. Dù phải đánh đến cái lai quần. Bởi thất bại hay chỉ không chiến thắng thôi, cũng có nghĩa là đổ vỡ tất cả.

Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000



HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)

Kỳ 1


Bùi Ngọc Tấn


 




 


              Bùi Ngọc Tấn & Hậu Chuyện kể năm 2000

UYÊN THAO

Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại làng Câu Tử Ngoại, xã Hợp Thành, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông gia nhập làng báo sau khi theo đội Thanh Niên Xung Phong vào tiếp quản Hà Nội tháng 10-1954 với vai trò phóng viên cho tờ Tiền Phong. Thời gian này, ông ký bút danh Tân Sắc và bắt đầu sáng tác văn nghệ, dù có lệnh cấm nhà báo viết văn nên phải viết chui tức ký bút danh khác. Cái lệnh kỳ quái này không cản được Bùi Ngọc Tấn sáng tác và ông đã gửi một truyện ngắn — Chị Trúc — dự thi giải văn nghệ của báo Văn Nghệ. Truyện của ông được Tô Hoài khen hay nhưng không được in và tất nhiên không được chấm giải, vì bị cho là nói đến những mất mát của chiến tranh “hơi quá liều lượng.” Tất nhiên sau đó Bùi Ngọc Tấn phải điều chỉnh cách viết để có thể tiếp tục góp mặt trong sinh hoạt văn nghệ nhưng đã cố giữ khoảng cách với “hàng ngũ nhà văn cung đình.”

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

Chuyện về cụ Tôn Thất Tần qua lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên


Chuyện về cụ Tôn Thất Tần qua lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên

 Bài này là một phần của Đêm Giữa Ban Ngày - Vũ Thư Hiên.


Chương 38

Ở Hỏa Lò tôi đã được nghe Thành kể về con người huyền thoại đã ở liền một mạch hai mươi hai năm trong tù. Anh nói có lần chưa hoàn cung anh bị đưa đi trại chung, tôi không nhớ trại nào, tại đây anh gặp những người đã ở chung với một tù nhân có thâm niên cao nhất : tù suốt từ 1946 cho tới tận bây giờ (tức năm 1968). Kỷ lục ấy chưa có ai vượt qua. Vì sự chịu đựng ghê gớm ông ta được mệnh danh là "Jean Valjean(1) gọi bằng cụ".
Tôi nghe, nhưng không tin. Tin làm sao được chuyện tào lao đến thế ! Chúng tôi đang sống giữa thế kỷ XX, chứ đâu phải thời Trung cổ.
Không ngờ chuyện đó có thật và rồi tôi được gặp "Jean Valjean gọi bằng cụ" bằng xương bằng thịt ở trại A Tân Lập.
Một hôm Trần Chấn Hoa dẫn tôi sang nhà C, nơi có đám số tù số lẻ ở trại Vĩnh Quang (tỉnh Vĩnh Phú) vừa chuyển lên, chưa phân vào các toán. Trần Chấn Hoa cũng đã ở Vĩnh Quang vài năm, y có nhiều người quen. Nghe Trần Chấn Hoa tả thì trại nằm dưới chân Tam Ðảo, một bình nguyên rộng ngút tầm mắt, nơi trâu ấn Ðộ và cừu Mông Cổ được nuôi thí nghiệm để nhân giống. Cuộc thí nghiệm không thành công. Những con trâu to kềnh không cho sữa, cừu thay nhau lăn ra chết. Tôi đã đến đây làm phóng sự, nhưng không thành. Người ta chỉ in các phóng sự về thành công thôi. Bù lại, tôi được ăn thỏa thích thịt cừu hoi rình trong những món chém to kho nhừ của bếp nông trường. Thịt cừu nấu plow (pilaw) hoặc súp kharcho(2) rất tuyệt, nhưng không ai biết làm.