Nhãn

Thứ Tư, 8 tháng 12, 2010

Thơ Đường nhân chuyến thăm Cố Đô

Thơ Đường nhân chuyến thăm Cố Đô
 
Sau chuyến đi Huế vào dịp trung thu năm Bính Tuất, Đặng Văn Sinh ngẫu hứng làm mấy bài thơ chữ Hán theo thể Đường luật, trong đó có một bài ngũ ngôn tứ tuyệt, ba bài thất ngôn tứ tuyệt và một bài thất ngôn bát cú, nhằm ghi lại cảm xúc của mình trên hành trình vào thăm Cố đô.  Nhà thơ Nguyễn Đào Trường, và nhà thơ - nhà biên dịch Hán Nôm Duy Phi, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam dịch sang tiếng Việt. Chân thành cảm ơn  các dịch giả.  

                                                                            Đặng Văn Sinh

                                                               Khiêm lăng




                   

                             

 

              , ,

Phiên âm:

Quá Đại Linh giang(1)

                        Đặng Văn Sinh                                         

Thử địa tiền triều tằng huyết chiến
Qua mâu ảnh chiếu ảm sầu vân
Chí kim khách đáo Linh Giang thượng
Vãng sự, hồi đầu ức cổ nhân.
                        
         Đại Linh giang, thu nguyệt, Bính Tuất niên              
                                                            Sông Gianh

Dịch nghĩa:

Qua sông Gianh

Đất này triều trước đã từng là nơi huyết chiến
Ánh giáo gươm chiếu lên làm tối đám mây buồn
Đến nay khách viếng thăm sông Gianh
Ngoảnh đầu nghĩ đến chuyện cũ, nhớ người xưa.

                      Sông Gianh, mùa thu, năm Bính Tuất

Dịch thơ:

Qua sông Gianh
 
                          
Nơi đây huyết chiến ngày xưa
Giáo gươm lóe chớp rơi mưa mây sầu
Sông Gianh khách đến bấy lâu
Người qua chuyện cũ ngoảnh đầu lệ rơi.

                                      Nguyễn Đào Trường

Đất này huyết chiến nghiêng triều trước
Gươm giáo ánh mây cũng sẫm mờ
Khách đến sông Gianh, trên sóng dội
Ngoảnh đầu nghĩ lại, nhớ người xưa.

     Duy Phi
                       
    

                                 

亡魂 ?
" ".

                             , , , 七日

Phiên âm:

 Quảng Trị cổ thành

                              Đặng Văn Sinh

Quảng Trị hoang thành tuyệt giá cô(2)
Phong xuy cựu trủng chiểm vi lô
Thùy tri tử sĩ vong hồn hận?
"Nhất tướng công thành vạn cốt khô".

                 Quảng Trị, Bính Tuất niên, trọng thu, sơ thất nhật

Dịch nghĩa:

       Thành cổ Quảng Trị

Thành hoang Quảng Trị đã hết loài chim đa đa
(Chỉ có) gió thổi làm lung lay đám lau sậy trên những ngôi mộ cũ
Nào ai biết vong hồn tử sĩ còn vương hận?
Một tướng làm nên chiến công phải đổi bằng vạn sinh mạng.

              Quảng Trị, ngày mồng 7, tháng 9, năm Bính Tuất
                                 
Dịch thơ:

Thành Cổ Quảng Trị
                     
                  
Lau sậy hoang thành lạnh gió xô
Lung lay mộ cũ chiến trường xưa
Nào ai tử sỹ vong hồn hận
"Nhất tướng công thành vạn cốt khô".

                                     Nguyễn Đào Trường
                                                        Cổng thành cổ Quảng Trị
                       
Quảng Trị thành hoang hết giá cô
Gió ru mộ cũ đám lau thưa
Ai hay tử sĩ hồn vương hận
Một tướng nên công vạn nấm mồ!

                                   Duy Phi
                             鄧文生
滿
                  , , ,

Phiên âm:

Hương giang tức sự

Đặng Văn Sinh
             
Thủy thượng du thuyền (3) dật nguyệt cầm
Hương giang kỷ độ nhật phù trầm
Thi nhân, tài nữ sầu tương biệt
Nhất khúc Nam Bình (4) lệ mãn khâm.

                 Thuận Hóa, Bính Tuất niên, trọng thu, cát nhật

                                           Sông Hương, đoạn chảy qua thành Huế
Dịch nghĩa :

Hương giang tức sự

Trên mặt nước, du thuyền đầy tràn tiếng đàn nguyệt
Đã bao lần mặt trời chìm nổi trên Hương giang
Thi nhân, tài nữ lưu luyến từ biệt nhau
Một khúc hát Nam Bình, nước mắt thấm ướt vạt áo.


                    Huế, ngày lành, tháng chín, năm Bính Tuất

Dịch thơ:
Hương giang tức sự
                      
Mặt nước thuyền đi tiếng nguyệt tràn
Mây trời chìm nổi bến Hương Giang
Thi nhân tài nữ lưu từ biệt
Khúc hát Nam Bình lệ mãi loang.
                            Nguyễn Đào Trường
                                   
Du thuyền đàn nguyệt sóng êm
Mặt trời Hương Thuỷ mấy phen lạc loài
Thi nhân, tài nữ luyến hoài
Nam Bình một khúc, áo ai lệ đầy... 

                            Duy Phi


Sóng sánh Hương Giang nước lẫn trời
Nguyệt cầm thả nhịp ánh trăng phơi
Thuyền dừng, chủ khách buồn ly biệt
Một khúc Nam Bình lệ mãi rơi.

                                Tác giả tự dịch
                                      

樹陵 感作

                 

殿

                    千樹陵, ,
                        
Phiên âm:

 Thiên Thụ(5) lăng cảm tác

                          Đặng Văn Sinh
                       
Tàn dương lưu cố tháp
Ngọc điện lãnh vô đăng
Thế Tổ(6) kim hà tại
Do tồn nhất thạch lăng
 
            Thiên Thụ lăng, Mậu Tuất niên, trọng thu
 Dịch nghĩa :

Cảm xúc làm thơ về lăng Gia Long

Nắng chiều còn sót lại trên tháp cổ
Cung điện lạnh lẽo không ánh đèn
ĐứcThế Tổ bây giờ ở đâu?
Chỉ còn lại một tòa lăng đá.

               Lăng Thiên Thụ, tháng chín, năm MậuTuất
                                                         Lăng Đồng Khánh

Dịch thơ:

Cảm xúc làm thơ trước lăngGia Long
                        
 Tháp cổ vương nắng chiều
Cung điện quạnh cô liêu
Thế Tổ đâu còn mãi
Lăng đá lạnh đìu hiu.

                 Nguyễn Đào Trường

   

Bên lăng Gia Long cảm tác
                              
 Nắng chiều vương tháp cổ
Điện ngọc lạnh, không đèn
Thế Tổ giờ đâu nhỉ?
Một lăng đá an nhiên.

                              Duy Phi
                                                           Lăng Minh Mệnh
                                   

    

                              

手留
.

               , , ,

Phiên âm :
                                           Khiêm Lăng (lăng Tự Đức) nhìn toàn cảnh
Khiêm lăng tiền hữu cảm

                                      Đặng Văn Sinh

"Khiêm cung k‎ý" (7) tại thạch bi đường
Ngự thủ lưu danh nhất đế vương
Nội loạn, Kinh thành nhân ngạ tử
Ngoại xâm, Lục tỉnh lỗ phong cương
"Khiêm cung" xảo ngữ khi thiên địa
"Tự Đức" (8) tự khoa hoặc tứ phương
Thánh trạch ban dân hà hựu tại?
Hồi đầu chỉ kiến kỷ tai ương.

                       Thuận Hóa, Khiêm lăng tiền, Mậu Tuất niên, trọng thu

                                                    Nhà bia trong Lăng Tự Đức
            
Dịch nghĩa:

Cảm nghĩ trước Khiêm lăng

Bài ký "Khiêm cung" đặt trong nhà bia
Là ngự bút lưu danh bậc đế vương
Nội loạn, tại Kinh thành người chết đói
Vùng Lục tỉnh, giặc ngoại xâm chiếm đóng
"Khiêm cung" là câu nói khéo nhằm dối trời đất
"Tự Đức" là lời khoe để mê hoặc thiên hạ
Ơn vua ban cho dân giờ ở đâu?
Ngoảnh đầu chỉ thấy biết bao nhiêu tai ương.

               Huế, trước Khiêm lăng, trọng thu, năm Mậu Tuất


Dịch thơ:

Cảm nghĩ trước Khiêm lăng

                                          
Khiêm cung bia đá dựng cao vời
Nét chữ vua lưu, "đệ nhất" rồi
Nội loạn, Kinh thành dân đói thét
Ngoại xâm, Lục tỉnh giặc "giùm" coi
Khiêm cung, ngón xạo, gian lừa đất
Tự Đức, tự khoe, dối mị trời
Ân trạch vua ban đâu chẳng biết,
Ngoảnh đầu, chỉ thấy hoạ dân thôi!

                                         Duy Phi

                                
Khiêm cung nào có khiêm gì?
Đế vương ngự bút để bia muôn đời
Kinh thành loạn,đói chết người
Ngoài kia sáu tỉnh làm mồi ngoại xâm
Lừa dân khéo đặt Khiêm cung
Lời khoe mẽ chẳng thể mong yên bình
Ơn Vua ban thật mong manh
Tai ương chiếu chỉ dân lành lầm than.

                                    Nguyễn Đào Trường


Tác giả tự dịch:

1/ Đường luật

 Cảm nghĩ trước Khiêm lăng

"Khiêm cung", bia đá tại Khiêm đường
Ngự bút lưu danh bậc đế vương
Nội loạn, Kinh thành người chết đói
Ngoại xâm, Lục tỉnh giặc nhiễu nhương
"Khiêm cung" xảo biện khinh trời đất
"Tự Đức", tự khoe dối bốn phương
Ân trạch vua ban sao chẳng thấy?
Ngoảnh đầu chỉ thấy những tai ương.

2/ Lục bát

Cảm nghĩ trước Khiêm lăng

"Khiêm cung ký" tại Khiêm đường
Nổi danh ngự bút đế vương một thời
Kinh thành, chết đói khắp nơi
Nam Kỳ, giặc chiếm kiếp người nổi trôi
"Khiêm cung" khéo dối đất trời
"Tự Đức" ấy lời mê hoặc bốn phương
Ơn vua nào biết tỏ tường
Ngoảnh đầu chỉ thấy tai ương mấy đời.




 Chú thích        

(1) Tên chữ Hán của sông Gianh là Đại Linh giang
(2) Một loài giống chim đa đa (gà gô) trước chiến tranh  thường gặp ở thành cổ Quảng Trị, nay gần như đã  tuyệt chủng.
 (3) Tác giả cùng một số bạn bè đi thuyền nghe hát trên sông Hương
 (4) Một làn điệu dân ca Huế                         
(5) Tên lăng vua Gia Long
(6) Niên hiệu vua Gia Long sau khi lên ngôi hoàng đế           
 (7) Bài ký tỏ ý khiêm tốn, cung kính do vua Tự Đức soạn, được khắc vào bia đá để trong nhà bia tại Khiêm lăng.
 (8) Niên hiệu của Hồng Nhậm sau khi giết anh là Hồng Bảo rồi lên ngôi hoàng đế









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét