Nhãn

Thứ Tư, 14 tháng 10, 2020

CÓ NÊN LỚN TIẾNG DẠY DỖ THIÊN HẠ KHI CHÍNH TÁC GIẢ ĐẠO VĂN VÀ VIẾT THƠ ĐƯỜNG BẤT THÀNH CÚ

  

Đặng Văn Sinh

 





Tôi chưa hân hạnh được kết bạn với Khúc Hà Linh trên trên FB, nhưng có một face booker vừa gửi đến bài viết của ông về cách nhận diện thơ Đường và cách làm một bài thơ Đường. Status không dài nhưng giọng điệu cực kỳ cao ngạo, phản ánh tâm thức của một học giả “thượng thông thiên văn, hạ tường địa lý”, sặc mùi dạy đời, coi nhân quần chỉ là đám học trò thiểu năng trí tuệ, bảo sao nghe vậy.

Đọc xong, tôi bật cười. Bởi lẽ, tất cả những thứ Khúc Hà Linh viết về thơ Đường đều chỉ là sự xào xáo từ những cuốn sách đã xuất bản hoặc nguồn từ liệu có sẵn trên mạng internet. Hơn nữa, lý thuyết về thơ Đường từ khi nó xuất hiện đến nay, trải qua 1400 năm vẫn thế, nhai đi nhai lại chỉ khiến người ta bực mình theo kiểu cụ cố Hồng “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.

Thao thao bất tuyệt như thế, nếu Khúc Hà Linh sáng tác Đường thi, nhập được hồn Đường vào từng câu chữ, khiến cho bài thơ trở thành giai phẩm thì mỗ xin bái phục. Nhưng khốn thay, cái gọi là “Đường thi” ấy lại là một mớ chữ nghĩa hổ lốn, chẳng những chắp vá đầu Ngô mình Sở, tự dạng, từ ngữ sai be bét mà còn biểu hiện khá đậm nét trò chơi đạo chích với các bậc tiền nhân, hay nói một cách chính xác là ĐẠO VĂN.

Nói có sách, mách có chứng, xin dẫn ra hai trường hợp cụ thể sau đây:

 

I -  Bài thơ TÂY HỒ

 


Hồi cuối tháng Hai âm, nhân chuyến về thành phố Hải Dương, tôi có đến thăm một anh bạn vong niên trong giới văn nghệ sĩ tỉnh nhà. Lúc uống trà, bất chợt tôi nhìn thấy tấm ảnh chụp cỡ lớn bức thư pháp rất bay bướm, lồng khung kính treo trang trọng nơi phòng khách. Vốn là dân võ vẽ ít chữ Tàu cổ, lại có tính hiếu kỳ, tôi đặt chén trà gia chủ vừa rót mời, lại gần đọc thử. Nhưng mà đến khi mục sở thị, tôi bỗng rụng rời chân tay, tim đập thình thịch, bởi lẽ, đó là loại  “cuồng thảo” (狂草) loằng ngoằng như xích chó, chẳng khác gì một bức tranh siêu thực, chắc chỉ có người “đẻ” ra nó mới hiểu được.

Tôi đang ngán ngẩm thì, thật may, dưới dòng lạc khoản có phần thu nhỏ bài thơ bằng 22 chữ khải (楷書), trong đó có 2 chữ tiêu đề Tây hồ (西湖). Lướt qua dòng lạc khoản mới hay, thì ra đó là thơ Đường của ông Khúc Hà Linh và người “vẽ chữ” cũng là một họa sĩ xứ Đông. Tôi xin phép anh bạn trẻ chụp lại tấm ảnh bức thư pháp để về nhà “ngâm cứu” xem đầu cua tai nheo ra sao.

Tối hôm ấy, tôi đưa ảnh vào máy tính, zoom lên đọc, sau đó gõ phần mềm Hanoi key, chuyển file ảnh sang file word, cuối cùng được toàn văn bài thơ Đường dưới đây

  西湖

昔闻杭州美

今玩到西湖

何水美女欲

茫茫憶翁蘇

 

Phiên âm:

TÂY HỒ

Tích văn Hàng Châu mỹ

Kim ngoạn đáo Tây Hồ

Hà thủy mỹ nữ DỤC

MANG MANG ức ÔNG TÔ.

 

Tác giả tự dịch:

TÂY HỒ

Hàng Châu đẹp, tiếng lâu rồi

Bây giờ mới được dạo chơi Tây Hồ

Giọt nào người tắm ngày xưa

Miên man bỗng nhớ ông Tô bồi hồi...

 

NHẬN XÉT:

Chỉnh lý văn bản cho đúng với nguyên tác xong, định bắt đầu đọc một cách nghiêm túc để thưởng thức vẻ đẹp của bài tứ tuyệt, nhưng vừa lướt qua phần chữ Hán tôi đã bị choáng, chút xíu nữa là lên cơn tension bởi lẽ chẳng những có một số chữ viết sai tự dạng mà còn lầm lẫn cả cấu trúc từ, ngữ chữ Hán trung đại với tiếng Việt hiện đại.

1/ Chữ sai đó là chữ “dục” . Chữ “dục” này là tham muốn, mong muốn, nguyện vọng, còn chữ “dục” là tắm thì phía trái phải có bộ thủy ()nhưng không có chữ “khiếm” () bên phải.

Chữ sai thứ hai là chữ 茫茫 (mang mang). “Mang mang” là mênh mông, mờ mịt, mơ hồ không đích xác, hay vội vàng, đều là phó từ, không thể đi liền với từ ức” được. Điều này thấy rất rõ ở phần dịch thơ, dùng từ “miên man” là từ láy đúng, nhưng vấn đề là phải tìm được từ gốc Hán tương ứng thì tác giả không làm được.

Chữ sai thứ ba là 翁蘇 (ông Tô). Trong tổ hợp chữ Hán không có sự kết hợp kiểu này mà chỉ có “Tô ông”. Nhưng nếu là “Tô ông” thì mất vần. Rõ ràng đây là hiện tượng ép vận. Câu trên vần “ô” (hồ), đương nhiên câu dưới cũng phải “ô” (tô) đọc mới xuôi. Do tác giả không nắm được ngữ pháp chữ Hán nên nhầm lẫn với cấu trúc tiếng Việt làm cho câu thơ trở thành ngô nghê.

2/ Thất niêm, thất luật

Với thơ Đường, niêm luật cực kỳ quan trọng. Ở thời Sơ Đường hay đầu Trung Đường, niêm luật chưa hoàn chỉnh nên có không ít bài thất luật (trắc thành bằng và ngược lại), thậm chí có những bài thất luật lại trở thành nổi tiếng đến cả ngàn năm như “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu hay “Đăng Nhạc Dương lâu” của Đỗ Phủ. Nhưng từ thời Thịnh Đường trở đi, cấu trúc thơ Đường đã đi vào quy củ, coi như khuôn vàng thước ngọc, nhất là về “luật” đã được đúc kết thành “nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh”, nghĩa là chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không cần bàn, nhưng (thanh bằng, trắc) ở các chữ thứ hai, thứ tư và thứ sáu phải tuân thủ triệt để. Với thơ ngũ ngôn tứ tuyệt cũng vậy, chỉ có điều thể thơ năm chữ thì không có chữ thứ sáu mà thôi.

Vì thế, căn cứ vào thơ Đường ngũ ngôn tứ tuyệt thì bài “Tây Hồ” sai nghiêm trọng về “luật”. Khảo sát câu “khai” và câu “thừa”, người đọc đã thấy ngay tác giả “nhái” hai câu đầu của bài “Đăng nhạc Dương lâu” của Đỗ Phủ:

登岳陽樓

杜甫

昔聞洞庭水,

今上岳陽樓。

(...)

“Đăng Nhạc Dương lâu”:

“Tích văn Động ĐÌNH thủy

Kim thướng Nhạc Dương lâu”

Đây là bài thơ luật bằng, vần bằng, ngay câu mở, chữ thứ tư đáng lẽ vần trắc thì Đỗ Phủ lại dùng chữ “đình” vần bằng. Tác giả bài “Tây Hồ” cũng lặp lại y nguyên cái sai của người xưa “Tích văn Hàng CHÂU mỹ”, nghĩa là chữ thứ tư sai luật. Tuy nhiên, Đỗ Phủ chỉ sai có một luật, còn bài “Tây hồ” chữ “nữ” và chữ “ông” lại sai tiếp. Như vậy, bài thơ chỉ có 22 chữ mà tác giả “thất” đến ba luật, thì không còn gì để nói.

Một bài gọi là thơ chữ Hán mà sai tự dạng, cấu trúc văn bản lởm khởm, thất niêm, thất luật mà lại gọi là “Đường thi” rồi viết thư pháp treo lên thì đúng là không còn gì để bàn về cái sự liều mạng của những kẻ điếc không sợ súng.

CHÚ THÍCH:

“Đăng Nhạc Dương lâu”, Đỗ Phủ, Thơ Đường tập II, NXB Văn học, 1987, tr.266.

Nguyên tác chữ Hán bài thơ lấy từ trang Wiki pedia  (tiếng Trung giản thể):

登岳阳楼

杜甫

昔闻洞庭水,今上岳阳楼。

吴楚东南坼,乾坤日夜浮

亲朋无一字,老病有孤舟

戎马关山北,凭轩涕泗流

 

II – Bài thơ TÂY HỒ THƯỢNG DU THUYỀN ỨC TRI ÂM






西湖上游船憶知音

詩曲河灵

眾覽西湖留異客

浙江每丽更思親

眼前香色真奇趣

惜少知音只一人

 

Phiên âm:

TÂY HỒ THƯỢNG DU THUYN ỨC TRI ÂM

 

Add caption

Thi Khúc Hà Linh

 

Chúng lãm Tây Hồ (lưu?) DỊ KHÁCH

Chiết Giang MỖI lệ cánh TƯ THÂN

Nhãn tin hương sắc chân k thú

Tích THIỂU tri âm chỉ NHẤT NHÂN

 

Dịch nghĩa:

ĐI THUYỀN TRÊN TÂY HỒ NHỚ BẠN THÂN

Khúc Hà Linh

Mọi người đến xem Tây Hồ ở lại làm khách lạ

Mỗi (đẹp?) ở Chiết Giang càng nhớ người thân

Trước mặt là hương sắc k thú

Tiếc ít bạn tri âm, chỉ có một người.

 

Nhận xét:

Trước hết đây là một văn bản thực chất không phải thơ Đường mà là một mớ chữ nghĩa được lắp ghép từ ý tưởng, chủ đề và cả bố cục, vần điệu  từ bài thơ “Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ” (ngày trùng cửu nhớ anh em Sơn Đông) của Vương Duy, một nhà thơ lớn đời Đường. Tuy nhiên, thơ Vương Duy là một chỉnh thể, các từ ngữ có mối liên hệ nội tại phản ánh tâm trạng của người tha hương, nhân ngày trùng cửu, chợt nhớ đến anh em khi lên cao bẻ cành thù du (thù dù, là một loại cây cát tường, hương vị rất nồng nàn có thể làm thuốc. Tập tục xưa vào ngày tết trùng cửu 9/9, đeo thù du trên người có thể đẩy lui được hạn xấu).

Trong khi ấy, vì là sản phẩm nhái nên “Tây Hồ thượng du thuyền ức tri âm” không chỉ thơ chắp vá khập khiễng, vô hồn mà còn có một số từ không đúng chức năng ngữ pháp. Chẳng hạn như “Chúng lãm Tây Hồ (lưu?!) dị khách”. Đây là một câu cho dù tỉnh lược đến mức dộ nào chăng nữa vẫn vô cùng tối nghĩa nếu chữ thứ năm là chữ “lưu”. “Chúng lãm Tây Hồ” là một ngữ (mọi người xem Tây Hồ), vậy thì chữ “lưu” động từ đặt sau hoàn toàn vô nghĩa. Chưa hết, đến “mỗi lệ” thì sự vô lý còn tăng lên gấp bội, bởi ở trường hợp này, “lệ” là tính từ, mà tính từ bao giờ cũng đi trước một danh từ, ghép lượng từ “mỗi” với tình từ “lệ” là không hiểu gì về cấu trúc ngữ pháp chữ Hán.

Chỉ với 20 chữ mà tác giả đã viết sai đến hai chỗ chẳng trách thi bất thành cú là phải. Đấy là còn chưa nói, tự dạng bài thơ viết không thống nhất. Toàn bộ bài thơ viết chữ phồn thể, vì sao lại có chữ (lệ) giản thể lạc loài, mà đáng lý ra phải là mới hài hòa.

Để đảm bảo độ tin cậy, chúng tôi dẫn dưới đây nguyên văn bài thơ của Vương Duy, xin bạn đọc tham khảo.

THƠ VƯƠNG DUY

(692年-761)

 

九月九日憶山東兄弟

王維

獨在異鄉為異客,

每逢佳節倍思親。

遙知兄弟登高處,

遍插茱萸少一人。

 

Phiên âm:

CỬU NGUYỆT CỬU NHẬT ỨC SƠN ĐÔNG HUYNH ĐỆ

Vương Duy

 

Độc tại dị hương vi DỊ KHÁCH,

Mỗi phùng giai tiết bội TƯ THÂN.

Dao tri huynh đệ đăng cao xứ,

Biến sáp thù du THIỂU NHẤT NHÂN.

 

 

 

Dịch nghĩa:

Một mình làm khách lạ ở nơi đất lạ,

Mỗi khi tới ngày tiết đẹp càng nhớ người thân bội phần.

Tuy ở xa cũng đoán biết nơi anh em đang lên cao đấy,

Ai ai cũng cài cành thù du, chỉ thiếu mội người.

 

Dịch thơ:

Chiếc gối quan hà nghiêng đất khách;

Trùng dương tiết đến nhớ thương ai,

Cành thù tưởng lúc lên cao bẻ

Đủ mặt anh em thiếu một người.

                                   Tùng Vân dịch

 

Nguồn dẫn: “Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ”,

 Thơ Đường tập 1, NXB Văn học, tr. 68 – 69.

Nguyên văn chữ Hán lấy từ Wikipedia (Bách khoa từ điển mở, tiếng Trung)

 

 14.10.2020

Đ.V.S

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét