Tản văn là loại hình khá đa dạng với nhiều biến thể khác nhau, và mỗi biến thể ấy tương thích với “tạng” của từng cây bút. Có loại tản văn thiên về triết lý xã hội, nhân sinh, có loại khai thác trạng thái tâm lý, tình cảm, lại có loại được diễn đạt dưới dạng hồi ức từ những trang nhật ký kết hợp bới thao tác bình luận ngoại đề. Nói như vậy để thấy rằng, tản văn không có khuôn mẫu nhất định. Nó là một thể loại văn chương mở. Không chỉ riêng các nhà văn nhà thơ, mà bất cứ ai trong giới cầm bút đều có thể viết.
Có thể nói, “thị trường” tản văn mấy năm gần đây vô tiền khoáng hậu, số lượng in sách, báo, tạp chí giấy cũng như các trang mạng xã hội xuất hiện dày đặc, tuy chưa thể thống kê nhưng chắc chắn vượt xa hai thập niên đầu của thế kỷ XXI cộng lại. Tuy nhiên, phải nói thật, tản văn nhiều nhưng số lượng thường không đi đôi với phẩm chất mà phổ biến nhất là hiện tượng cóp nhặt mỗi nơi một tí rồi xào xáo, tán rông dài, thiếu vắng tư tưởng và hoàn toàn không có cảm xúc.
Thật ra, suy nghĩ của
tôi có phần cực đoan. Công bằng mà nói, bên cạnh loại tản văn chỉ ở tầm câu lạc
bộ, nếu chịu khó tìm, vẫn có thể được đọc những cuốn sách nghiêm túc, mà ở đó,
giọng điệu tản văn khiến ta như lạc vào thế giới huyền ảo, mông lung, khiến trái
tim ta rung động tiếc nuối. “Đường xưa thương nhớ” của nữ sĩ Lê Phượng là như
thế.
Với cảm nhận của
riêng tôi, “Đường xưa thương nhớ” giống như những mảnh hồi ức được một cựu học
sinh trường Đồng Khánh, tái hiện dưới dạng tản văn nhưng âm hưởng lại phảng phất
thơ trữ tình bởi lớp từ ngữ uyển chuyển, tinh tế, vốn là phong cách riêng của người
cố đô.
Cuốn sách gồm 32
bài, trong đó hầu hết là những hồi ức tuổi ấu thơ, tản văn của Lê Phượng lấy
không gian làng quê ven sông Bồ làm bối cảnh và tâm thức của người con xa xứ Huế
làm điểm nhìn nghệ thuật. Từ xứ sở của những bản trường ca Tây Nguyên xa xôi,
sau mấy chục năm “lưu lạc giang hồ”, Lê Phượng nhìn về mảnh đất quê hương bằng
con mắt của người từng trải nghiệm sự đời, nhưng tình cảm của chị vẫn nguyên vẹn
như những ngày gian nan, vất vả sống đầm ấm bên cha mẹ, chị em. Đó là cái nhìn
nhân ái, nhân văn của một tâm hồn đa cảm và cả một chút đa đoan nữa.
Cũng bởi là những mảnh
ký ức nên tản văn Lê Phượng không có tham vọng lớn lao thuộc tầm vĩ mô. Chị cứ
lặng lẽ âm thầm viết về những cái bình thường thậm chí vụn vặt trong cuộc sống
thường nhật nhưng chính chúng lại làm nên bản sắc văn hóa con người miền Trung
trong cái đa dạng của văn hóa Việt. Đọc tản văn Lê Phượng, ta có thể nhận ra,
bài nào của chị cũng được hình thành từ cảm xúc, thứ cảm xúc chân thực bắt nguồn
từ tình yêu sâu nặng với quê hương, gia đình khiến cho mỗi câu văn đều tiềm
tàng năng lượng có sức mạnh chinh phục tâm hồn người đọc. Phải nói rằng, viết
được những tản văn như “Hình bóng quê nhà”, “Thương nhớ ngày thu”, Nhớ mùa đông
cũ”, “Giá mà con đổi được thời gian” hay“Một vầng sáng trong tôi”..., phải là
người có tâm hồn nhạy cảm, một tư duy sắc sảo, và hơn thế nữa, một ngọn bút tài
hoa...
Cái giỏi trong nghệ
thuật tản văn Lê Phượng là cùng một phong cách diễn ngôn nhưng mỗi bài lại có sắc
thái biểu cảm khác nhau khiến người đọc
luôn bị cuốn hút bởi chị biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa thực hành “kể” với bình
luận ngoại đề, từ đó hình thành tổng thể nghệ thuật qua sự tương tác giữa ý tưởng,
ngôn ngữ và nhịp điệu. Nói cách khác, thao tác bình luận ngoại đề chính là một
dạng ngôn ngữ đặc biệt vừa tự sự vừa trữ
tình, hai thao tác này chuyển hóa vào nhau. Đây cũng là một trong những cách tạo
ra hiệu ứng thẩm mỹ. Và cũng bởi thủ pháp này, tản văn của Lê Phượng luôn ngắn
gọn, mỗi bài không vượt quá 1200 chữ, có bài chỉ 800 chữ nhưng bố cục mạch lạc,
câu văn luôn mở rộng thành phần, nhịp nhàng cân đối, đồng thời lại giàu tính nhạc.
Có một hiện tượng phổ
biến của loại hình tản văn. Đọc riêng từng bài thì có vẻ hay, nhưng khi in
thành tập lại nhạt. Đó là bởi người viết không giữ được phong độ, nhất là trong
một thời gian ngắn viết quá nhiều. Hiện tượng cảm xúc bão hòa chi phối rất nhiều
đến chất lượng tác phẩm. Biện pháp gián cách thời gian cũng chỉ có tác dụng hạn
chế. Cái chính vẫn là ở năng lực tư duy nghệ thuật và cách tổ chức văn bản của
người cầm bút. Không thiếu những bài được đặt title rất ấn tượng nhưng nội dung
lại con cà con kê, lằng nhằng chẳng khác gì bè rau muống, đọc xong rồi mà chẳng
hiểu tác giả muốn nói gì...
Riêng “Đường xưa
thương nhớ”, Lê Phượng gần như duy trì phong độ được từ đầu đến cuối. Điều này
không phải ai cũng làm được nếu người viết thiếu đi một chút tài năng và nhất
là cảm xúc hời hợt, coi văn chương chỉ là trò chơi chữ nghĩa. Sở dĩ tản văn Lê
Phượng định hình được phong cách là bởi kỹ năng bình luận trữ tình ngoại đề lúc
ẩn lúc hiện qua những dòng hồi ức đứt nối. Mặt khác, kỹ năng tả cảnh, tả người
và đặc biệt là tả tâm trạng của tác giả đã góp phần quan trọng vào sự thành
công của cuốn sách. Tản văn của Lê Phượng hầu như bài nào cũng có một vài đoạn
tả cảnh, tả tình, tả diễn biến tâm lý xen kẽ với những hồi ức về một con đường
quen thuộc, một bến đò vắng, một mùa thu đã xa hay một trò chơi dân gian thời
niên thiếu. Rất có thể, những mảnh hồn quê ấy đã từng nâng đỡ bước chân cô giáo
trẻ trên hành trình vào Tây Nguyên lập nghiệp, bỏ lại ngôi làng nhỏ bên sông Bồ
bao sợi nhớ sợi thương mà hình ảnh mẹ già tần tảo vẫn thường ngày hiện lên
trong tâm trí.
Trong đời sống thường
nhật, xôi bắp, khoai tía khoai từ, bánh cộ bánh in, cũng như me đất, củ mì...,
vốn chỉ chỉ là những món ăn dân dã hay hoa quả rất đỗi bình thường của mảnh đất
nghèo miền Trung gió Lào cát trắng, nhưng một khi đi vào tản văn Lê Phượng nó
trở thành nỗi niềm day dứt trong tâm khảm với câu hỏi ngược đời “bao giờ cho đến
ngày xưa?”. Bởi đó là miền ký ức, là hoài niệm của người con xa cố quận quặn
lòng nhớ về một trầm tích văn hóa làng, cho dù đó là những ngày khốn khó, con
người rơi vào cảnh thiếu đói triền miên. Có đọc “Nhớ chợ Cống xưa” mới biết cái
tình quê hương của tác giả sâu nặng biết chừng nào. Thé gian vật đổi sao rời,
chợ ấy giờ chỉ còn cái tên trong tâm thức: “Vì vậy, trong tôi xóm chợ Cống vẫn
là xóm mang những gì rất xưa cũ mà tôi luôn nhớ thương. Có lẽ, sau này tôi về
Huế, biết đâu tôi sẽ đứng trên đường chợ Cống xưa mà nhớ chợ Cống xưa” (tr.
134).
“Đường xưa thương
nhớ” là tập tản văn đẹp, đẹp về cấu trúc văn bản cũng như ngôn ngữ nghệ thuật
khiến ta đọc một mạch từ đầu đến cuối, gấp sách rồi tâm trạng vẫn còn bâng
khuâng như thương như nhớ một cái gì đó tuy không rõ hình hài. Ngẫm nghĩ mãi rồi
cũng chợt hiểu ra, rất có thể đó là “Hình bóng quê nhà” với “Mùi hương chiều”,
“Tháng Ba quê nhà” hay “Cây sầu đâu cô lẻ”, những hình ảnh quen thuộc trở thành
mẫu số chung cho người Việt xa xứ dù họ sinh sống ở ở bất cứ vùng miền nào.
Sự hấp dẫn của tản
văn trước hết là ở điểm nhìn nghệ thuật qua dòng cảm xúc mãnh liệt, nhất là cảm
xúc về làng quê một thời đã qua. Nhưng để hiện thực hóa dòng cảm xúc ấy phải cần
đến ngôn ngữ, thữ ngôn ngữ “chuyên dụng” chỉ có ở loại hình tản văn. Như trên
đã nói, Lê Phượng có cách viết tản văn khác người, trước hết là ở thao tác miêu
tả kết hợp với bình luận ngoại đề. Thì đây, ta hãy nghe tác giả viết về mùa thu
xứ Huế qua “Thương ngày thu xa”: “Ta từng ra ngọn đồi sau nhà, đồi cây mùa thu
xao xác lá, lá rơi rơi bay theo gió, lá trải thảm dưới chân, nhìn những chiếc
là mong manh, nhuốm màu vàng úa, cây chơ vơ cành, có con chim gì về hót, điệu
buồn như tiếc lá rơi” (tr. 71). Còn đây là nỗi niềm “Nhớ mùa đông cũ” vã với giọng
điệu buồn man mác: “Huế lạnh kéo theo mưa, mưa khi ầm ào, khi rả rích, khi lây
phây, mưa triền miên không dứt. Đêm nghe mưa rơi trên mái nhà như đang gõ bản
tình sầu muôn thuở, gió thổi tạt mưa, tiếng mưa khi đậm khi nhạt nghe như tiếng
người phụ nữ buồn than thở suốt canh thâu” (tr. 86). Và đây nữa, trong “Tháng
Chạp về”, tác giả gửi cho ta đoạn một đoạn bình luận trữ tình, mỗi khi đọc lại
vẫn thấy mang mang nỗi buồn chẳng rõ căn nguyên: “Tháng chạp là tháng cho người
đi xa trở về quê nhà, tháng cho những người tha phương, những kẻ còn trong giấc
mộng ‘tang bồng hồ thỉ’ nhớ về nguồn cội, nhớ ngày giỗ chạp, nhớ mồ mả ông cha
và nhớ mình có một cái họ đứng trước một cái tên...” (tr. 92). Cũng vẫn với giọng
điệu kể ngắn gọn nhưng phong cách biểu đạt lại gần với âm hưởng của những bản
trường ca Tây Nguyên, Lê Phượng viết về dã quỳ, từ lâu đã trở thành một đặc
trưng văn hóa: “Có thể nói dã quỳ là hoa của mùa đông. Hoa nở ra như giữ lại
màu vàng của nắng và giữa bạt ngàn gió cũng không rụng rời tơi tả mà chấp chới
như đùa giỡn, như vẫy chào. Ít có loại hoa nào mạnh mẽ và giàu sức chịu đựng đến
vậy” (tr. 125).
Ở vùng đất của những
bản trường ca Đam San, Xinh Nhã, từng thưởng thức hương vị cà phe Ban Mê trong
âm thanh dìu dặt của những bản nhạc trữ tình mà Lê Phượng lại nhớ da diết hương
chiều bên sông Bồ. Mùi hương bảng lảng như thực như mơ ấy chắc phải ám ảnh lắm,
tác giả mới khái quát như một triết lý sống: “Chiều là khi bóng nắng đã lụi dần,
ngày sắp khép lại, là lúc ta trở về với chính ta, với bản ngã mặc định kiếp người,
ta ý thức được sự tồn tại của bản thân trước sự dịch chuyển thường hằng của vũ
trụ. Và chính lúc ấy, ta mới cảm nhận được cái vi diệu của thiên nhiên đất trời,
ta cảm nhận được hương chiều” (tr. 18). Và rồi, cũng với mạch hồi tưởng về cảnh
sắc hoàng hôn Xứ Huế, bất chợt tác giả sử dụng hình ảnh làn khói như một phép ẩn
dụ: “Rồi ta nhận ra, lòng mỗi người được buộc lại nơi quê hương không phải bằng
sợ dây to lớn nào đó mà chỉ là làn khói mỏng manh mà bền chặt muôn đời” (tr.
20).
Tản văn Lê Phượng
là vậy, chúng ta cùng đọc và suy ngẫm.
Bến Tắm, tháng tư đầu
hạ, ngày lành
Đ.V.S.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét