Nhãn

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

Tìm hiểu về một số bài thơ “Vô đề” của Lý Thương Ẩn

Tìm hiểu về một số bài thơ “Vô đề” của Lý Thương Ẩn

Trần Tư Tề
(Nghiên cứu sinh Trung văn, Đại học Đông Hải, Đài Loan)

1-      Lời đầu
Thơ “Vô đề” do Lý Thương Ẩn sáng tác thường rất khó hiểu nhưng lại vô cùng hấp dẫn các thế hệ độc giả. Đối với thể loại thơ này, Lý Thương Ẩn từng giải thích: “Sở vũ hàm tình câu hữu thác” (Mưa Sở ẩn chứa cái tình đều có sự ký thác). Từ những nét lớn trên mà xét, thơ của ông nằm trong số ít, riêng biệt có sự ký thác, phần lớn đều lấy tình yêu nam nữ làm đề tài, diễn tả tình ý triền miên, hình ảnh sinh động, khiến độc giả mọi thời đại đều nhiệt tình tán thưởng.
Có thể nói, thơ “Vô đề” của Lý Thương Ẩn thuộc dòng bác học tuyệt mỹ, phong cách riêng biệt, xứng đáng là một trường phái trong dòng thơ tình yêu cổ đại Trung Hoa.(1) Lưu Đại Kiệt cũng nhân xét: “Thơ ‘Vô đề’ của Lý Thương Ẩn thuộc thể loại trữ tình, nghệ thuật diễn đạt đặc sắc, được truyền bá rộng rãi, có ảnh hưởng lớn đối với hậu nhân. Đọc những bài thơ này, chúng ta càng hiểu, Lý Thương Ẩn miêu tả tình yêu bằng thủ pháp kỳ diệu. Ông có sở trường nghiêm túc mà không khinh bạc, trong sáng mà không nông cạn, có tình cảm chân thực trong sự thể nghiệm chân thực, trữ tình mà sâu sắc, ý tứ tinh tế mà thâm viễn”.(2)
Những bài thơ này luôn diễn tả thứ tình cảm chân thành, ai oán, buồn thảm, không chỉ làm xúc động lòng người bằng thi luật tinh xảo, cảnh ngộ u sầu mà còn ở âm điệu hòa hợp, khiến người đọc “nhất xướng tam thán”. Đồng thời, cùng một lúc, lại có sự hòa điệu, khiến người đọc nhận được sự giao cảm giữa âm điệu và sắc thái. Đó chính là điều làm cho rất nhiều độc giả, qua cả ngàn năm, vui vẻ đón nhận sự kỳ diệu của nó.(3) Nói cách khác, sở dĩ, thơ Lý Thương Ẩn được nhiều người hân hoan đón nhận chính là bởi thể loại “Vô đề”.

Bài viết này chỉ giới hạn trong phạm vi thể loại “Vô đề” với sự tìm hiểu đặc điểm ý tượng, ý cảnh cùng với tình cảm thể hiện trong thơ, hy vọng sẽ tìm ra được những đặc trưng nghệ thuật của họ Lý. Về cơ bản, các nhà thơ thời Đường, mỗi khi sáng tác đều có tập quán tạo mệnh đề để người đọc hiểu được ý tưởng của mình. Cái gọi là “mệnh đề” ấy được phân loại rõ ràng và cụ thể, trong khi đó, “Vô đề” lại có mệnh đề pháp ngoại lệ. Tuy nhiên, “Vô đề” không phải không có đề mục, chỉ là tác giả không nói thẳng ra, cũng có khả năng, do để mất đề mục mà thành chăng? Lâm Hoằng Tác nhận định: “Trước Lý Thương Ẩn chưa từng có thơ “Vô đề”, sau Lý Thương Ẩn cũng không nhà thơ nào viết nhiều “Vô đề” như vậy. Tóm lại, Lý Thương Ẩn là thủy tổ của thơ “Vô đề”, lại là nhà thơ dốc hết tâm lực sáng tác thể thơ này, cho nên, không còn nghi ngờ gì nữa về sự suy tôn ấy”.(4)
2-      Giọng điệu và hình ảnh trong thơ “Vô đề” của Lý Thương Ẩn

Thơ quý ở hình tượng hàm súc. “Vô đề” của Lý Thương Ẩn mang phong cách độc đáo, hình ảnh mông lung, ý tứ sâu sắc, miên viễn. Hình tượng trong thơ ông luôn làm cho người đọc có cảm giác bàng hoàng, mê mẩn, vì thế đã có người bình luận là “ẩn từ quỷ ký” (từ ngữ giấu kín, ký thác tâm trạng lạ lùng). Nếu nhè nhẹ ngâm đọc một số bài thơ này, nó sẽ làm cho ta có những cảm nhận không giống nhau bởi hàng loạt những hình ảnh xuất hiện, tác động vào tình cảm người đọc một cách tự giác hoặc bất tự giác, khiến ta mê mẩn tận hưởng vẻ đẹp nhiều chiều của hình tượng thơ, khiến dư vị bài thơ như được kéo dài đến vô cùng(5). Bài “Vô đề” dưới đây là một trong số đó:

《無題》(相見時難別亦難)
相見時難別亦難,東風無力百花殘。
春蠶到死絲方盡,蠟炬成灰淚始乾。
曉鏡但愁雲鬢改,夜吟應覺月光寒。
蓬山此去無多路,青鳥殷勤為探看(6)

Phiên âm:

Vô đề
Tương kiến thời nan biệt diệc nan,
Đông phong vô lực bách hoa tàn.
Xuân tàm đáo tử ty phương tận,
Lạp cự thành hôi lệ thuỷ can.
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải,
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn.
Bồng Lai* thử khứ vô đa lộ,
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
·         Có bản là chép “Bồng Sơn”
·          
Dịch nghĩa:
Vô đề
Gặp gỡ nhau đã khó, chia tay nhau lại càng khó,
Gió xuân không đủ sức, để trăm hoa tàn úa.
Tằm xuân đến chết mới nhả hết tơ
Ngọn nến thành tro mới khô nước mắt.
Buổi sớm soi gương, buồn cho tóc mây đã thay đổi,
Ngâm thơ ban đêm chợt nhận ra ánh trăng lạnh lẽo.
Đường từ đây tới Bồng Lai dù không xa,
Cũng xin nhờ chim xanh vì ta mà thăm dò giúp.

Mở đầu bài thơ là một khung cảnh chia ly. Tình cảm sâu nặng như thế, hình ảnh mông lùng, mờ ảo như thế, trong khi tâm trạng đau khổ, hoàn cảnh cô đơn, tất cả đều được biểu đạt bằng hình thức “ý tại ngôn ngoại”(7). Nếu căn cứ vào ý tứ các con chữ, xem nó là một dạng cấu trúc ngôn ngữ biểu đạt nội hàm, thì, cái mà tác giả ký thác vào thơ chính là sự nhẫn nhịn, sự chịu đựng và mối tình ly hận. Cuối cùng chỉ còn lại những “truy ức” không thay đổi với nhiều nỗi đau thương, tình cảm chân thành cảm động lòng người:
“Xuân tàm đáo tử ty phương tận/ Lạp cự thành hôi lệ thủy can” (Tằm xuân đến chết mới nhả hết tơ/Ngọn nến thành tro mới khô nước mắt). Hai câu này tạo ra một hình tượng ngôn ngữ mới, hàm nghĩa, cho dù bể cạn đá mòn tình cảm vẫn không thay đổi, làm xúc động tâm hồn độc giả đến thiên thu vạn đại(8).
 Các câu 1 và 2 chủ yếu diễn tả mối quan hệ của hai nhân vật trữ tình trong một hoàn cảnh khá éo le, khó có thể cứu vãn phần nào tình yêu đang dần tan vỡ. Ở câu 1, chữ “thời” là chỉ thời gian; chữ “nan” là làm không được, (hoặc không dễ); chữ “biệt” chỉ sự phân ly. Câu 2, chữ “đông phong” chỉ gió xuân; chữ “vô lực” chỉ “không còn khả năng”; chữ “bách hoa” ý chỉ mối quan hệ vốn từng tốt đẹp giữa hai người; chữ “tàn” ngụ ý tình cảm bị thương tổn.
Câu 3 và 4, chủ yếu là lời tự bạch của tác giả. Chữ “ty” trong câu 3 là hài âm tả ý của chữ “tư”; chữ “cự” trong câu 4 chỉ bó đuốc; còn “lệ thủy can” chỉ tình cảm trong lòng bị thương tổn, do vậy cũng có thể hiểu thêm một bước, “tằm xuân nhả hết tơ” là hình ảnh biểu thị tình yêu sâu nặng để so sánh với “trái tim ngọn nến” (bấc) cháy đến tận cùng nước mắt (nhựa nến) mới cạn. Câu 5 và 6 diễn tả tâm trạng của nhà thơ trọn một ngày, trong đó chữ “hiểu” chỉ buổi sáng; chữ “đãn” là đại từ chỉ thị; chữ “sầu” để chỉ nội tâm vật vã; còn ba chữ “vân mấn cải” là hình dung mái tóc dần dần chuyển sang bạc. Chữ “dạ” trong câu 6 chỉ đêm đã tàn; chữ “ngâm” chỉ sự rên rỉ, âm vực thấp, trầm lắng ám chỉ trong lòng bị dày vò, dằn vặt khi mà không gian lạnh lẽo “hàn”.  Câu 7 và 8 chủ yếu để chỉ tác giả rất quan tâm đến đối phương. Hai chữ “Bồng Lai” (Bồng Sơn) trong câu 7 là để chỉ nơi ở của các vị thần tiên. Chữ “thử” là đại từ chỉ thị; chữ “khứ” chỉ đi về phía trước; chữ “vô đa” là không nhiều, không xa, còn hai chữ “thanh điểu” trong câu 8 chỉ con chim nhỏ bên cạnh Tây Vương Mẫu chuyên việc đưa đón tin tức. Hai chữ “ân cần” chỉ sự quan tâm (chú ý, cẩn thận), còn chữ “thám” chỉ sự thăm hỏi, tìm hiểu.
Xét đến cùng, bài thơ tình ái, tương tư độc đáo này có hay không có ngụ ý? Từ xưa đến nay đã có nhiều cách lý giải khác nhau. Có người bảo, đối tượng để nhà thơ Vãn Đường này ngày nhớ đêm mong chính là Linh Cô Đào, còn “Bồng Lai” (Bồng Sơn) để chỉ nơi ở của nàng. Cụm từ “đông phong vô lực” là có ý nói Linh Cô bất lực không giúp gì được mình, còn “bách hoa tàn” thì tượng trưng bản thân luân lạc, mà cuối cùng “chim xanh thăm hỏi” hàm ý gửi niềm hy vọng vào việc Linh Cô hồi tâm chuyển ý.
Lại cũng có người suy đoán, đối tượng tương tư là Lý Đức Dụ; “Bồng Lai” (Bồng Sơn) ám chỉ lúc ấy Lý bị lưu đày đến Nhai Châu; “đông phong vô lực” có ý ngầm chỉ triều chính suy vi, rối loạn, còn “bách hoa tàn” chính là hình ảnh ẩn dụ bản thân tác giả đang bị biếm truất. Cuối cùng, “thanh điểu… thám khan” (chim xanh…thăm dò) có thể là sự hoài niệm và hy vọng của Lý(9) về một thời chưa xa.
Sở dĩ người viết bài này đưa ra hai cách nhận diện khác nhau về bài “Vô đề” (Tương kiến thời nan biệt diệc nan) là để cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều. Đương nhiên, trong số này, cũng có những trường hợp áp đặt khiên cưỡng hoặc cố ý xuyên tạc, nhưng, nhìn chung, ngoài sự lý giải thiên về quan điểm chính trị, hầu hết người đọc đều cảm nhận bài thơ độc nhất vô nhị này dưới góc độ tình yêu. Những người từng trải qua cuộc tình ta vỡ thường có xu hướng tán thưởng, ý tứ và hình tượng cũng như những tín hiệu từ trái tim, bỗng nhiên khơi dậy trong lòng họ những đau khổ, dằn vặt dẫn đến sự đồng cảm. Do vậy, có thể thấy, hình tượng bài thơ là một thể thống nhất, cùng với lớp từ ngữ giầu sắc thái biểu cảm đã tạo nên một văn bản nghệ thuật đạt đến cảnh giới của sự hàm súc, mông lung, mơ hồ.
Hơn thế nữa, thơ “Vô đề” của Lý Thương Ẩn còn nổi bật dưới nhiều góc độ, nhiều tầng nghĩa qua phương pháp ám thị, xử lý hình tượng chủ quan và sự vật khách quan, dưới lớp vỏ hiện thực bi kịch ái tình. Sự mông lung mờ ảo trong thơ chính là hiệu quả của thủ pháp trên.
Trong thơ “Vô đề”, Lý Thương Ẩn thường hay sử dụng bút pháp hội họa để miêu tả hoàn cảnh, thời gian, không gian, sắc thái, khứu giác, vị giác…dưới nhiều góc độ, nhiều trình tự, như những tín hiệu nghệ thuật. Bởi vậy, những người yêu thích thơ ông, trong suy nghĩ của mình thường nảy sinh ám thị(10), như bài “Vô đề” (Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong) dưới đây:

《無題二首》之一(昨夜星辰昨夜風)
昨夜星辰昨夜風,畫樓西畔桂堂東。
身無綵鳯雙飛翼,心有靈犀一點通。
隔坐送鈎春酒暖,分曹射覆蠟燈紅。
嗟余聽鼓應官去,走馬蘭臺類斷蓬(11)

Phiên âm:
Vô đề (Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong)

Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong,
Hoạ lâu tây bạn quế đường đông.
Thân vô thái phượng song phi dực,
Tâm hữu linh tê nhất điểm thông.
Cách toạ tống câu xuân tửu noãn,
Phân tào xạ phúc lạp đăng hồng.
Ta dư thính cổ ưng quan khứ,
Tẩu mã lan đài loại chuyển bồng.

Dịch nghĩa:

Đêm qua sao đầy trời, đêm qua gió nổi,
Bên tây lầu họa, phía đông nhà quế.
Thân ta không có đôi cánh phượng bay cao,
Nhưng trong lòng có sừng tê để cảm thông.
Ngồi xa nhau chuốc chén xuân ấm áp,
Cùng vui trò "xạ phúc" dưới ánh nến hồng.
Ôi, nghe tiếng trống giục đi việc quan
Ruổi ngựa tới lan đài như ngọn cỏ bồng.

Từ câu 1 và 2 của bài thơ này ta có thể nhận ra, trong một đêm không trăng, tác giả cùng nhóm nam nữ tham gia cuộc vui chơi do một thành viên có địa vị xã hội đứng ra tổ chức. Câu 3 và 4 chỉ “ta”, hy vọng linh hồn “ta” có thể biến thành phượng hoàng bay đến bên nàng, tuy “ta” không thể làm được nhưng “ta” biết trái tim nàng và trái tim “ta” cùng chung nhịp đập. Chữ “thân” của câu 3 chỉ sinh mệnh, linh hồn, còn “phương” là chỉ đối tượng nam; chữ “tâm” trong câu 4 là để chỉ tư tưởng; chữ “hữu” chỉ giống như, tự hồ; “linh tê” chính là “thông tê”, ngầm chỉ sừng tê linh thiêng; còn “nhất điểm” hàm ý chỉ chữ “tâm”. Hai chữ “cách tọa” trong câu 5 rõ ràng là chỉ nam nữ chia ra ngồi hai bên bàn; chữ “tống câu” có nghĩa là “tàng câu”; “xuân tửu” chỉ cuộc vui chơi mùa xuân. Chữ “tào” trong câu 6 chỉ hai nhóm nam nữ ngồi đối nhau; chữ “xạ phúc” chỉ một trò chơi đố chữ trong tiệc rượu; còn chữ “hồng” cõ lẽ là ám chỉ lửa bùng cháy. Câu 7 và 8 có thể hiểu , nhà thơ lúc ấy đang ở kinh thành, sau đêm vui chơi, nghe thấy tiếng trống phải vội vã chạy đến công đường, trong tâm trí luôn trăn trở một điều là mình không tự quyết định được vận mệnh của mình.
Có học giả cho rằng, bài thơ này là sự liên kết của bốn loại thi liệu, trong đó có nhắc đến thời gian và địa điểm nơi dạ hội. Trong một đêm trời sắp sáng, muôn ngàn sao lung linh, tại phòng quế tỏa hương thơm u nhã, nhà thơ ôm ấp mối tình sâu nặng, chờ đợi cùng người đẹp tương ngộ. Hai câu thơ “Thân vô thái phượng song phi dực/ Tâm hữu linh tê nhất điểm thông” giãi bày với ý trung nhân tình cảm vô bờ bến, đồng thời cũng ngầm chỉ ra lý tưởng chính trị của mình(12).
 Nhà thơ Cảnh Liên đã cung cấp cho độc giả hình ảnh của hai bức tranh vui vẻ “Xuân tiểu noãn”. Khi thời tiết ấm áp thì phóng bút còn “lạp đăng hồng” lại dùng màu sắc để diễn tả. Chữ “noãn”, chữ “hồng” tạo nên không khí ấm áp, vui vẻ. Phần trước miêu tả đậm nét không khí ôn hòa, an dật, phần sau là không khí sôi nổi , phấn khích. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh được miêu tả , trái lại, việc tốt khó thành. Sự tan hợp trong cuộc đời là khôn lường, cuối cùng, cái còn lại chỉ là những hoài niệm. Trong bài thơ, ta không hề thấy tác giả miêu tả dung mạo, tính cách, ngôn ngữ cũng như đặc điểm của nữ chủ nhân. Tuy nhiên từ những tín hiệu sơ sài đầy tính ước lệ qua sự ám thị của nhà thơ, ta có thể dự đoán, chủ nhân phải là một tiểu thư cực kỳ xinh đẹp(13).
Lý Thương Ẩn thường mượn những hình ảnh cụ thể của cảnh vật tự nhiên, đem thứ tình cảm trừu tượng không thể nói ra ký gửi vào, tạo nên hình tượng đa nghĩa, nội hàm bài thơ phong phú, tình cảm chân thành mà mãnh liệt. Đó chính là thủ pháp lấy vật để tỏ lòng, nói cái này nhưng ý lại là cái kia. Với đặc điểm này, Lý Thương Ẩn đã tạo cho thơ “Vô đề” của mình một cách diễn đạt mông lung, mờ ảo, làm người đọc tiếp nhận với những cách khác nhau:

Vô đề”, hai bài; bài 2 (Trùng duy thâm há Mạc Sầu đường)

無題(重帷深下莫愁堂)
重帷深下莫愁堂,
臥後清宵細細長。
神女生涯原是夢,
小姑居處本無郎。
風波不信菱枝弱,
月露誰教桂葉香?
直道相思了無益,
未妨惆悵是清狂(14)

Phiên âm:
Vô đề (Trùng duy thâm há Mạc Sầu đường)

Trùng duy thâm há Mạc Sầu đường,
Ngoạ hậu thanh tiêu tế tế trường.
Thần nữ sinh nhai nguyên thị mộng,
Tiểu cô cư xứ bản vô lang.
Phong ba bất tín lăng chi nhược,
Nguyệt lộ thuỳ giao quế diệp hương.
Trực đáo tương tư liễu vô ích,
Vị phương trù trướng thị thanh cuồng.

Dịch nghĩa:

Bức màn trong nhà Mạc Sầu tối âm u,
Sau khi đi nằm, thanh âm của đêm yên ả mãi.
Vách núi nơi thần nữ ở, cũng chỉ là giấc mơ,
Nơi Tiểu cô ở vốn không có đàn ông.
Trong sóng gió, không tin cành ấu mềm yếu,
Dưới trăng sương, ai khiến lá quế thơm.
Biết người nói tương tư là vô ích,
Nên chưa đem nỗi đau đổi lấy tiếng cuồng điên.
Bài thơ mượn hoàn cảnh của người con gái chưa thành thân thổ lộ hết tâm trạng đau khổ, bày tỏ sự cảm khái về hoài bão chính trị không được thuận buồm xuôi gió của tác giả. “Thần nữ sinh nhai” chính là tỷ dụ cuộc đời từng trải với bao thăng trầm mộng ảo; “tiểu cô… vô lang” ngụ ý chỉ hoàn cảnh hiện tại bị cô lập không nơi nhờ cậy; “phong ba” ý nói mình xuất thân hàn vi lại gặp phải cảnh bị đè nén nơi chính trường hiểm ác; “nguyệt lộ” (giọt móc dưới ánh trăng) hàm ý bản thân dù có chút tài năng nhưng không được chăm sóc bồi dưỡng thì khó mà phát triển. Phần cuối bài thơ, cho dù đã biết rõ “tương tư …vô ích” cũng vẫn kiên trì lý tưởng không hề thay đổi của mình(15). Ở đây, nhà thơ đem cái không có trong hiện thực khách quan, cũng như không tồn tại một thứ “sinh tử luyến” của hiện thực đời sống, lồng trong cảm hứng chủ quan của mình, tạo nên một khung cảnh giao hòa, âm điệu du dương, tiết tấu linh hoạt, say đắm lòng người. Từ đó có thể thấy, Lý Thương Ẩn là nhà thơ độc đáo bởi “Vô đề” có nội hàm phong phú, nghệ thuật phong phú, tình điệu du dương, nhưng rất khó diễn đạt thành lời. Hình tượng thơ ẩn chứa nỗi niềm tâm sự của tình yêu cháy bỏng nhưng đau khổ đến tận cùng làm hầu hết người đọc đều có thái độ đồng cảm(16).
Về mặt giọng điệu biểu hiện, cái gọi là “giọng điệu”, tức là dùng hình thức bên ngoài để nói cái bên trong hoặc ngược lại, trong đó, cái “tượng” có được là bởi cái “ý”. Nói cách khác, “tượng” là vật dẫn và “phù hiệu” của “ý”, “ý là nội hàm của “tượng”. Trong khi ấy, “tượng” vốn là để chỉ đối tượng của “hướng”(17). Tuy nhiên, trong “Vô đề” Lý Thương Ẩn, thường vận dụng khá thành công những hình ảnh không hoàn chỉnh (khiếm khuyết) cũng như các khoảng trống nghệ thuật để diễn tả vô số cung bậc của ái tình tuyệt vọng, tạo nên nhiều cảnh ngộ độc đáo không thể giải thích mà chỉ có thể cảm nhận. Cuộc đời Lý Thương Ẩn từng gặp nhiều trắc trở với những cuộc tình tan vỡ, tâm hồn bị thương tổn nặng nề, do vậy, thơ ông tràn đầy sắc thái bi kịch của kiếp nhân sinh(18)...
Trong thơ “Vô đề” của Lý Thương Ẩn, hình ảnh “my” được xem là khá điển hình:
“Vô đề” (Bát tuế thâu chiếu kính)

無題(八歲偷照鏡)
八歲偷照鏡,
長眉已能畫。
十歲去踏青,
芙蓉作裙
十二學彈箏,
銀甲不曾卸。
十四藏六親,
懸知猶未嫁。
十五泣春風,
背面鞦韆下(19)。

Phiên âm:

Vô đề (Bát tuế thâu chiếu kính)
Bát tuế thâu chiếu kính,
Trường my dĩ năng hoạ.
Thập tuế khứ đạp thanh,
Phù dung tác quần thoa.
Thập nhị học đàn tranh,
Ngân giáp bất tằng tá.
Thập tứ tàng lục thân,
Huyền tri do vị giá.
Thập ngũ khấp xuân phong,
Bối diện thu thiên hạ.

Dịch nghĩa:
Tám tuổi trộm soi gương,
Mày dài đã biết vẽ.
Mười tuổi đi hội Đạp thanh,
Biết dùng hoa phù dung trang điểm trên mái tóc.
Mười hai tuổi học chơi đàn,
Móng bạc gẩy đàn chưa từng tháo rời tay.
Mười bốn tuổi ở trong phòng khuê,
Cha mẹ vẫn chưa hứa gả cho ai.
Mười lăm tuổi khóc thầm cùng gió xuân,
Úp mặt buồn tủi dưới xích đu.

Đọc bài thơ náy, Diệp Tỷ Kỳ nhân xét: “Kỳ thực, đây bất quá chỉ là tự bảo, người thiếu nữ tài hoa phải sống mãi trong cảnh cô đơn mà thôi. Mười tám mười chín tuổi có thể làm…, hai mươi đến hai mươi tám tuổi cũng có thể làm….”.(20)  Trong bài thơ, hai chữ “trường my” thực chất là để chỉ văn chương, phong cách, khí chất hoặc giả phẩm cách của thi nhân(21). Qua bài thơ, ta có thể hiểu, tác giả ngầm bảo, tuổi trẻ của mình giống như cô thiếu nữ tài hoa sớm trưởng thành như một ẩn dụ. Chữ “thâu” trong câu 1 chắc chắm ám chỉ hiện tượng này. Câu thứ hai chỉ sự tự mình trang điểm. Từ “đạp thanh” trong câu 3 chỉ việc người con gái rời khuê phòng đi chơi hội; hoa “phù dung” trong câu 4 chính là hoa sen, còn “quần thoa” chỉ y phục và trang điểm phụ nữ. Câu thứ năm ngụ ý mình có nhiều tài năng; câu thứ sáu chỉ móng bạc lồng vào ngón tay để gẩy đàn, cũng gọi là “nghĩa giáp” chưa bao giờ tháo ra, hình dung đặc biệt chăm chỉ tập luyện. Chữ “tàng” trong câu 7 chỉ thiếu nữ đóng cửa phòng the. Chữ “huyền” trong câu 8 chỉ “không”, không có có tác dụng; chữ “do” có nghĩa là còn, chỉ y nguyên như cũ. Chữ “khấp” (khóc) trong câu 9 chỉ sự buồn bã; khóc có tiếng mà không nước mắt là khóc nhỏ máu vậy. Chữ “bối diện” chỉ không có người khác nhìn thấy; chữ “thu thiên” (bàn đu dây) chỉ người con gái thời xưa không ra khỏi nhà, lấy cái bàn đu dây làm trò tiêu khiển. Vì vậy, theo nội dung bài thơ cùng với những hình ảnh ẩn dụ mà xét, người đọc hình dung được, tác giả ôm trong lòng hoài bão lớn, tài năng bộc lộ sớm nhưng không gặp thời.
“Vô đề” hai bài, bài 1 (Trường my họa liễu tú liêm khai)

《無題二首》其一(長眉畫了繡簾開)
長眉畫了繡簾開,
碧玉行收白玉臺。
爲問翠釵釵上鳳,
不知香頸爲誰迴?(22)
Phiên âm:
Vô đề (Trường my hoạ liễu tú liêm khai)
Trường my hoạ liễu tú liêm khai,
Bích Ngọc hành thu bạch ngọc đài.
Vị vấn thuý thoa thoa thượng phượng,
Bất tri hương cảnh vị thuỳ hồi?
Dịch nghĩa:
Vẽ xong nét mày dài, vén rèm lụa lên,
Tì nữ thu dọn đài gương ngọc trắng.
Hỏi thử cánh phượng trên chiếc thoa cài đầu,
Không biết cổ người đẹp thơm vì ai?

“Vô đề” hai bài, bài 2 (Thọ Dương công chua giá thời trang)
《無題二首》其二(壽陽公主嫁時粧)
壽陽公主嫁時粧,
八字宮眉捧額黃。
見我佯羞頻照影,
不知身屬冶遊郎。(23)
Phiên âm:
Vô đề (Thọ Dương công chúa giá thời trang)

Thọ Dương công chúa giá thời trang,
Bát tự cung my phủng ngạch hoàng.
Kiến ngã dương tu tần chiếu ảnh,
Bất tri thân thuộc dã du lang.
Dịch nghĩa:
Người đẹp trang điểm như công chúa Thọ Dương lúc xuất giá,
Mày vẽ hình chữ bát, tô sống mũi màu vàng.
Gặp ta thẹn thò, cứ luôn nhìn bóng,
Không biết thân mình thuộc về khách làng chơi.
Hai bài thơ này kỳ thực tác giả ký thác tâm sự. Hai câu đầu của bài 1 ẩn dụ cởi áo xuất sĩ; hai câu dưới là sự cân nhắc như một câu hỏi nhưng thực tế lại không biết ai là người đồng cảm.
Bài thứ hai, tác giả dùng hình ảnh Thọ Dương công chúa mới lấy chồng, dùng từ “quan my” để tỷ dụ việc mình mới ra làm quan. Hai chữ “kiến ngã” của câu 3, không thể đứng dưới bùn mà nhìn nhận sự việc, ám chỉ mình thực sự có tài nhưng chẳng được trọng dụng. Hai câu cuối ngầm ký thác phẩm giá cao đẹp của mình.
Cũng có thể nói, hai bài thơ trên, phần hiển ngôn chỉ là hư tả, phần ẩn ngôn mới là thực tả. Phần hiển ngôn tả “trường my”, trang sức mũ phượng, thoa vàng “bát tự cung my” (vẽ lông mày hình chữ bát)…mà bỗng nhiên, kẻ hồng nhan lại không biết đến một sự thực là, có tài thao lược mà không nơi thi thố, vì thế tỏ nỗi bất bình.
Vô đề” (Cận tri danh A Hầu)
無題近知名阿侯)
近知名阿侯,
住處小江流。
腰細不勝舞,
眉長惟是愁。
黃金堪作屋,
何不作重樓(24)

Phiên âm:
Vô đề (Cận tri danh A Hầu)
Cận tri danh A Hầu,
Trú xứ tiểu giang lưu.
Tế yêu bất thăng vũ,
Mi trường duy thị sầu.
Hoàng kim kham tác ốc,
Hà bất tác trùng lâu?

Dịch nghĩa:
Gần đây nghe tiếng A Hầu,
Chỗ ở có dòng sông nhỏ chảy qua.
Eo thon nhưng không thể múa,
Nét mày dài chỉ có nỗi buồn.
Đã chịu làm nhà vàng cho ở,
Sao không làm cả lầu cao?
Qua bài thơ, ta có thể nhận xét, tình cảm và tâm thế trong quá trình sáng tác của họ Lý vô cùng phức tạp. Các chữ “my”, “yêu”… là những hình ảnh tượng trưng hòa vào hình tượng thơ như một chỉnh thể. Có người lại cho rằng, lý tưởng, ái tình, quan điểm nhân sinh và những vấn nạn xã hội quán xuyến toàn bộ bài thơ chính là tập hợp của nhiều đối tượng, nhiều dạng cảm xúc. Vì vậy, với những hình ảnh “yêu tế”, “my trường” chỉ được nhận thức như là vẻ đẹp của người con gái thì e rằng không thỏa đáng, không chỉ ra được mục đích của tác giả. Ít ra, Diệp Tỷ Kỳ cũng cho rằng “Sự ẩn dụ về một kẻ sĩ biết tôn trọng lễ nghĩa, thói thường, tất nhiên sẽ được sự hỗ trợ tối đa, vậy vì sao mà cuối cùng (nhà thơ) vẫn không được tiến cử?”.(25)
Vô đề” (Chiếu lương sơ hữu tình)
無題(照梁初有情)

照梁初有情,
出水舊知名。
裙衩芙蓉小,
釵茸翡翠輕。
錦長書鄭重,
眉細恨分明。
莫近彈棋局,
中心最不平(26)
Phiên âm:
Vô đề (Chiếu lương sơ hữu tình)

Chiếu lương sơ hữu tình,
Xuất thuỷ cựu tri danh.
Quần xái phù dung tiểu,
Thoa nhung phỉ thuý khinh.
Cẩm trường thư trịnh trọng,
Mi tế hận phân minh.
Mạc cận đàn kỳ cục,
Trung tâm tối bất bình.

Dịch nghĩa:

Hữu tình như ánh bình minh chiếu vào rường nhà,
Xinh đẹp như đoá sen ló khỏi mặt nước.
Chéo quần thêu cánh phù dung nhỏ,
Đầu cài trâm phỉ thuý nhẹ xinh.
Bao lần dệt bức thư dài gởi người,
Nỗi sầu hiện rõ trên nét mày thanh mảnh.
Khuyên người chớ lại gần cuộc cờ,
Trong lòng sẽ buồn khi thấy chuyện bất bình.
Bài thơ này không khó nhận xét, vì nó cũng là một dạng tự so sánh, trong đó, tác giả tỏ nỗi bất bình một cách sâu sắc, mãnh liệt, có sự tương đồng về giọng điệu với bốn câu đầu của bài “Vô đề” (Bát tuế thâu chiếu kính), mà trong đó “tế my”, “truyền hận” (Mạc cận đàn kỳ cục/ Trung tâm tối bất bình) là so sánh nỗi cảm khái và bi thương, còn “Thập ngũ khấp xuân phong/ Bối diện thu thiên hạ” lại càng giống nhau, còn “Thập ngũ khấp xuân phong” hàm ý là sự thương cảm, dự đoán những trở ngại trong tương lai. Những bài thơ thuộc dạng này thường là ký thác tâm trạng nhà thơ về hiện thực xã hội với vô số biến hóa, trong đó những bi kịch chính trị dần dần được hé lộ.
Qua sự tìm hiểu đặc điểm một số bài thơ “Vô đề”, ta có thể tạm nhận xét, giọng điệu chủ đạo của tác giả là sự tượng trưng về phẩm chất và tài năng của thi nhân, nhưng phẩm chất và tài năng ấy đều không đắc dụng, từ đó dẫn đến tình trạng tâm lý mất cân bằng. Cũng có thể thấy rõ giọng điệu và tâm thế sáng tác của nhà thơ trước sau luôn thống nhất.
Ngoài ra, việc tạo dựng hình tượng cũng là vấn đề cốt yếu, vì thế, đối tượng thẩm mỹ của chúng được cấu trúc như là một chỉnh thể, làm người đọc nhận thức đầy đủ hơn và cảm thụ sâu sắc hơn.(27) Hiển nhiên, thơ của ông không giống với Đỗ Phủ chủ yếu là phản ánh hiện thực; cũng không giống với Lý Bạch, chủ yếu là khuynh hướng lãng mạn. Lý Thương Ẩn là nhà thơ đặc biệt, sáng tác loại hình thơ cũng đặc biệt, phản ánh thế giới nội tâm, giàu chất trữ tình. Với thành tựu của cả hai phương diện này, Lý Thương Ẩn xứng đáng là tay cự phách trong làng thơ “Vô đề” thời Vãn Đường.

3-Những biểu hiện tình cảm trong thơ “Vô đề” của Lý Thương Ẩn

Tình cảm là trung tâm và động lực trong nghệ thuật sáng tác. Thi ca là thể loại văn học trữ tình, trữ tình chính là đặc điểm cơ bản của thể loại này. Muốn biết việc miêu tả yếu tố trữ tình có thành công hay không cần phải xem xét giá trị biểu hiện và sức truyền cảm thẩm mỹ của nó. Xưa nay đã có không ít những bài thơ nổi tiếng được phổ biến rộng rãi lấy phương thức trữ tình làm cơ sở diễn đạt.(28) Lý Thương Ẩn rất giỏi dùng ngôn ngữ ái tình trong thể loại thơ “Vô đề” làm đặc trưng căn bản. Tình cảm chân thành trong thơ “Vô đề” thông qua ngôn ngữ uyển chuyển, cùng việc tạo dựng hình ảnh mông lung, mờ ảo luôn tô đậm được không khí bi thương bởi tình yêu trắc trở, cho nên, nó như một thứ ma lực, luôn mê hoặc độc giả một cách kỳ lạ.
“Vô đề”, hầu hết đều lấy chuyện trai gái yêu thương nhau làm đề tài. Nó phản ánh các dạng thức tình cảm, diễn tả những cung bậc ái tình, tương tư phức tạp của các đối tượng nam nữ. Tình yêu ấy lại thường xuyên bị ngăn trở, mâu thuẫn với khát vọng tự do yêu đương đã tạo nên những sắc thái bi kịch, vì thế, dẫn đến tình trạng có nhiều cách cảm nhận khác nhau.
Thơ “Vô đề” thường diễn tả sự ly biệt và trắc trở của tình yêu nam nữ. Sự chờ đợi và thất vọng, sự cố chấp và câu nệ, hoan lạc và bi phẫn trong thơ đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật trữ tình. Đó chính là nguyên nhân làm nhiều thế hệ độc giả say mê. Ta hãy xem lại bài  “Vô đề” (Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong) để thấy cái tài của nhà thơ họ Lý trong việc vận dụng ngôn từ mềm mại, uyển chuyển để diễn đạt tình yêu nam nữ. Ở bài thơ này, tác giả lấy hình ảnh gió xuân của đêm hôm trước để chỉ sự xa cách ý trung nhân trong nỗi nhớ thương da diết. Lòng say đắm đến si mê của người con trai bởi tình cảm sâu nặng với người con gái được diễn tả bằng những hình ảnh ẩn dụ nhuốm màu buồn bã, thê lương, mà thiếu nó hẳn là sẽ mất đi sự hấp dẫn. Rốt cuộc, hai tính chất thị giác và sự mẫn cảm nghệ thuật chính là đặc trưng thẩm mỹ trong sở trường của Lý Thương Ẩn.
Thơ “Vô đề” của họ Lý, bất luận là hương vị khác lạ của trình tự tình ái hay những diễn biến tâm lý sắc sảo dưới dạng ngụ ý, xét đến cùng đều được quy chiếu vào dạng bi kịch tình yêu bằng th ngôn ngữ đặc thù, mông lung, khó hiểu. Cho nên giải thích thấu đáo thơ ông là điều rất khó đối với người đọc.
a/ Phương thức trữ tình, diễn đạt uyển chuyển
Với thể loại “Vô đề”, Lý Thương Ẩn rất ít khi sử dụng ngôn ngữ miêu tả trực tiếp đối tượng, mà thường là diễn đạt bằng hình ảnh trữ tình qua lớp từ giàu sắc thái biểu cảm, mềm mại, linh hoạt để chuyển tải một thông điệp nghệ thuật nào đó. Một trong những bài “Vô đề” thành công nhất về bút pháp của ông trong lĩnh vực này là “Vô đề”(Tương kiến thời nam biệt diệc nan). Ngay câu mở đầu bài thơ, tác giả đã tả sự đau khổ của cảnh biệt ly cũng như lúc sum họp: gặp nhau đã khó khăn, biệt ly càng khó khăn gấp bội. Đây quả là một hiện tượng lạ trong cấu trúc thơ Đường vốn chỉ thiên về sự ước lệ và điển cố. Tiếp đó tác giả lại dùng hai chữ “xuân tàm”(tằm mùa xuân) hình dung cảnh ly biệt của đôi nam nữ. Sự so sánh này ẩn dụ nỗi tương tư diễn ra triền miên, dịu dàng thành khẩn mà như có ngọn lửa bùng cháy trong lòng. Bài thơ tả cảnh tương tư ly biệt nhưng không biết thời hạn của hoàn cảnh ly biệt, đồng thời cũng nêu được những mâu thuẫn trong diễn biến tâm lý cảm động lòng người. Những tình cảm chân thực, sâu lắng, triền miên đau khổ cũng như hoài vọng này, chỉ gói gọn trong 56 chữ mà không biết đã làm bao nhiêu người đọc rơi lệ. Về mặt thi pháp, ta có thể nhận ra, Lý Thương Ẩn vừa tả tình vừa tả ý gắn liền với cảm xúc nội tâm vô cùng tinh tế: “Đông phong vô lực bách hoa tàn/ Xuân tàm đáo tử ti phương tận/ Lạp cự thành hôi lệ thủy can”, bề ngoài là tả hình ảnh khách quan, nhưng thực tế, đó chính là hình tượng tinh thần nội tâm nhà thơ, mà chỉ thông qua chúng, mới có sức biểu hiện mãnh liệt. Đó là lý do vì sao, bài thơ trở thành văn bản nghệ thuật đỉnh cao viết về tình yêu thời cổ đại(29).
b/ Giọng điệu mông lung, diễn tả tình cảm chân thành
Đem những chi tiết của sự mâu thuẫn phức tạp kết hợp với nỗi u buồn tâm tư làm nảy sinh hình tượng kỳ diệu tạo thành một không gian nghệ thuật mông lung, mờ ảo, đó chính là mục tiêu luôn được tìm tòi trong “Vô đề” của Lý Thương Ẩn. Sự cảm thụ mông lung, miên viễn… chính là một trong những đặc điểm quan trọng của tình yêu nam nữ, vì thế, tác giả triệt để sử dụng thủ pháp tượng trưng và mượn điển tích thần thoại, huyền thoại để tô đậm ý tưởng. Phương pháp “chuyển tình nhập cảnh” có ý nghĩa làm nổi bật tâm trạng, tạo ra giọng điệu man mác, thủ pháp này có giá trị biểu cảm gấp nhiều lần nếu chỉ miêu tả như một sự kiện xã hội. Bài “Vô đề” dưới đây có thể xem là một dẫn chứng:
“Vô đề”, 4 bài, bài 1(Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung):
無題四首其一(來是空言去絕蹤)

來是空言去絕蹤,
月斜樓上五更鐘。
夢為遠別啼難喚,
書被催成墨未濃。
蠟照半籠金翡翠,
麝薰微度繡芙蓉。
劉郎已恨蓬山遠,
更隔蓬山一萬重(30)
Phiên âm:
Vô đề tứ thủ kỳ 1 (Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung)
Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung,
Nguyệt tà lâu thượng ngũ canh chung.
Mộng vi viễn biệt đề nan hoán,
Thư bị thôi thành mặc vị nùng.
Lạp chiếu bán lung kim phỉ thuý,
Xạ huân vi độ tú phù dung.
Lưu Lang dĩ hận Bồng Sơn viễn,
Cánh cách Bồng Sơn nhất vạn trùng.

Dịch nghĩa:
Hẹn đến chỉ là nói suông, mà đi rồi thì mất tăm tích,
Trăng xế trên lầu vẳng tiếng chuông lúc canh năm.
Mộng thấy xa cách nhau cố kêu lên nhưng không thành tiếng,
Bức thư buộc phải viết xong, mực còn nhạt.
Ánh nến soi một nửa tấm chăn thêu chỉ vàng hình chim phỉ thuý,
Mùi hương xạ thoảng qua bức màn thêu hoa phù dung.
Chàng Lưu đã hận Bồng Sơn xa xôi,
(Mà mình) lại ở cách Bồng Sơn đến vạn trùng.
Chữ “thị” trong câu thứ nhất của bài thơ không có ý nghĩa; chữ “khứ” chỉ ly khai, ly biệt; chữ “tung” chỉ tung tích, tin tức. Chữ “nguyệt” ở câu thứ hai chỉ trăng tròn (nguyệt viên, nguyệt mãn); từ “lâu thượng” chỉ gian phòng trên lầu; “ngũ canh chung” hình dung đên đã tàn sắp sang ngày mới. Từ “bán lung” trong câu thứ năm hàm ý chỉ ánh nến chiếu sáng phần lớn gian phòng; còn “kim phỉ thúy” có lẽ là hình con chim phỉ thúy thêu bằng chỉ vàng trên vỏ chăn hoặc lồng đèn. Trong câu 6, hình ảnh “xạ hương” ám chỉ mùi hương trên thân thể người thiếu nữ; chữ “vi” chỉ một chút, một chút; chữ “độ” có thể hiểu là bay qua, vượt qua. Trong câu 6, “tú phù dung” cũng là hình thêu hoa trên tấm màn che. Mấy chữ “Bồng Sơn viễn” có thể hiểu là tình cảm hai người bị chia cắt; còn “cách vạn trùng” chính là sự cách trở vạn dặm, hàm ý mình giống như Lưu Lang, càng đau khổ.
Bài thơ toàn thác lời người con gái miêu tả diễn biến tâm trạng đau khổ triền miên trong một không gian cô tịch với ánh trăng suông, tiếng chuông rền rĩ báo sáng, ánh nến và bức thư nhạt nhòa màu mực. Rõ ràng, đây là một khung cảnh lãng đãng, mờ ảo với những trầm tư về mối tình tuyệt vọng. Lý Thương Ẩn đã lấy cảnh chuyển vào tình, mượn cảnh tỏ tình, tình cảnh lồng vào nhau tạo nên hình tượng tâm trạng của người đang yêu nhưng bị phân ly, cách trở.
c/ Tình cảm chân thực của thơ “Vô đề” được diễn đạt bởi không khí bi kịch và thương cảm, chứng tỏ bút pháp độc đáo trong khi miêu tả thế giới ái tình…
“Vô đề” 4 bài, bài 2 (Táp táp đông phong tế vũ lai):
無題四首其二(颯颯東風細雨來)
颯颯東風細雨來,
芙蓉塘外有輕雷。
金蟾嚙鎖燒香入,
玉虎牽絲汲井回。
賈氏窺簾韓掾少,
宓妃留枕魏王才。
春心莫共花爭發,
一寸相思一寸灰(31)
Phiên âm:
“Vô đề” tứ thủ kỳ 2 (Táp táp đông phong tế vũ lai)
Táp táp đông phong tế vũ lai,
Phù dung đường ngoại hữu khinh lôi.
Kim thiềm niết toả thiêu hương nhập,
Ngọc hổ khiên ty cấp tỉnh hồi.
Giả thị khuy liêm Hàn duyện thiếu,
Mật phi lưu chẩm Nguỵ vương tài.
Xuân tâm mạc cộng hoa tranh phát,
Nhất thốn tương tư nhất thốn hôi.
Dịch nghĩa:
Gió đông ào ạt, mưa phùn đến,
Ngoài ao sen, tiếng sấm nhè nhẹ.
Đốt hương bay qua chiếc khoá hình cóc vàng,
Múc nước từ giếng có hình hổ trên ròng rọc.
Họ Giả nhìn chàng quan huyện Hàn trẻ qua rèm ,
Mật phi (Chân phi) trao gối lại cho Nguỵ vương (Tào Thực).
Lòng xuân thôi đừng cùng hoa tranh nở,
Một tấc tương tư là một tấc tro.
Câu 1 và 2 của bài thơ chỉ một ngày xuân mưa gió có sấm nhẹ, không phải là ngày đẹp trời nhưng người con trai đến, có thể thấy tình cảm của chàng sâu nặng như thế nào. Câu 3 và 4 chỉ chàng trai chưa có đủ dũng khí vượt qua hoàn cảnh khó khăn trắc trở nên không thực hiện được lời hứa của mình mà chỉ gửi mùi hương qua lỗ khóa. Giá như nàng ra mặt nhờ múc nước, nhất định chàng sẽ cầm lấy dây gầu, từ đó, ta có thể thấy, lúc này Lý Thương Ẩn đã chán ghét tình yêu khi mà trong đời đã gặp những mối tình tan vỡ. Câu 5 và 6 chủ yếu ám chỉ tình yêu chân chính, là thứ “sinh tử luyến” vượt qua lễ giáo. Hai câu kết, lần thứ ba, Lý Thương Ẩn đứng trên lập trường của mình bình luận về câu chuyện này. Tác giả cho rằng, người con trai thực ra không phải không đến, mà bởi vì, trong lòng cô gái kia không có sự rung động của tình yêu đích thực nên chàng trai tuyệt vọng.
Từ bài thơ trên ta có thể thấy, Lý Thương Ẩn luôn chau chuốt từ ngữ, sáng tạo nên những hình ảnh đột xuất, giàu cảm xúc, ví như hai câu “Kim thiềm niết tỏa thiêu hương nhập/ Ngọc hổ khiên ti cấp tỉnh hồi”; mặt khác, ông giỏi sử dụng từ loại, nhất là động từ như “niết”, “khiên” dẫn dụ người đọc liên tưởng đến hoàn cảnh ly biệt, trắc trở. Lý cũng rất thành công trong kết hợp giữa phó từ và động từ một cách hiệu quả trong câu “Xuân tâm mạc cộng hoa tranh phát”, chứng tỏ, thơ “Vô đề” của ông biến hóa khôn lường bởi sự cộng hưởng của nhiều thủ pháp nghệ thuật.
 d/ Dùng từ ngữ diễm lệ, mềm mại làm gia tăng sắc thái biểu cảm.
Thơ “Vô đề” của Lý Thương Ẩn rất coi trọng nghệ thuật, sự cân đối, hài hòa. Thơ ông cũng ngầm ký thác tình cảm bị thương tổn, lấy hiện thực tình yêu như tấm áo phủ ngoài nhằm làm nổi bật bi kịch nội tâm. Bài thơ dưới đây thể hiện khá rõ nhận xét trên:
“Vô đề” (Tử phủ tiên sơn hiệu bảo đăng)
《無題》(紫府仙人號寶燈)
紫府仙人號寶燈,雲漿未飲結成冰。
如何雪月交光夜,更在瑤臺十二層(33)
Phiên âm:
Tử phủ tiên nhân hiệu Bảo đăng,
Vân tương vị ẩm kết thành băng.
Như hà tuyết nguyệt giao quang dạ,
Cánh tại Dao đài tập nhị tằng.
Dịch nghĩa:
Tử Phủ , nơi tiên ở gọi là “Bảo đăng”
Rượu tiên chưa kịp uống đã kết thành băng
Ước hẹn gặp nhau nơi ánh tuyết, ánh trăng giao hòa trong đêm như thế nào?
Trên tầng cao Dao Đài (mà nàng) không đến.
Đọc bài thơ này, Diệp Tỷ Kỳ nhận xét “Đây là bài thơ mỉa mai, châm chọc thơ cầu tiên của Vũ tông Lý Viêm”(34), nhưng từ văn bản mà xét, bài thơ có những hình ảnh đẹp với “tử phủ” lấp lánh kim quang của người tiên, có ráng chiều rực rỡ, tuyết trắng tinh khiết và ánh trăng huyền ảo. Bài thơ được tạo hình bởi một khung cảnh cực kỳ tráng lệ, ngầm ký thác nỗi buồn của kẻ sĩ quân tử không thực hiện được lý tưởng cao đẹp của mình.
e/ Dùng từ ngữ nhẹ nhàng diễn tả trạng thái hư không và vô thường của ái tình.
Các từ ngữ mềm mại, uyển chuyển và say đắm nồng nàn luôn được Lý Thương Ẩn vận dụng vừa đối lập vừa bổ sung cho nhau làm hình tượng thơ thoát ra khỏi sự bó buộc của ngôn từ ước lệ, tạo sức sống mới khi viết về tình yêu với hai đặc trưng “hư không” và “vô thường”. Thơ tình Lý Thương Ẩn khá phức tạp, ở một số bài có sự “thể ngộ” đến ký ức một thời, nhà thơ quan niệm, ký ức ấy chẳng qua cũng giống như ánh hào quang tạm thời lóe lên trước khi vụt tắt mà thôi:
Vô đề” hai bài, bài 1 (Phượng vĩ hương la bạc kỷ trùng
 《無題二首》其一(鳳尾香羅薄幾重)
鳳尾香羅薄幾重,碧文圓頂夜深縫。
扇裁月魄羞難掩,車走雷聲語未通。
曾是寂寥金燼暗,斷無消息石榴紅。
斑騅只繫垂楊岸,何處西南待好風(36)
 Phiên âm:
Phượng vĩ hương la bạc kỷ trùng,
Bích văn viên đính dạ thâm phùng.
Phiến tài nguyệt phách tu nan yểm,
Xa tẩu lôi thanh ngữ vị thông.
Tằng thị tịch liêu kim tẫn ám,
Đoạn vô tiêu tức thạch lựu hồng.
Ban chuy chỉ hệ thuỳ dương ngạn,
Hà xứ tây nam nhiệm hảo phong.

Dịch nghĩa:
Màn hương đuôi phượng rủ nhiều tầng,
Canh khuya may chiếc khăn màu xanh biếc để phủ trreen đỉnh trướng.
Quạt tròn, thẹn không che được khuôn mặt dưới trăng,
Xe như tiếng sấm ran, át cả lời nói.
Từng ngồi trong cô tịch với ánh đèn tàn,
Không rõ tin tức, hoa thạch lựu hông đã nở.
Chỉ buộc ngựa Ban truy bên cây thuỳ dương
Nơi nào ở tây nam đợi cơn gió lành?
Bài thơ diễn tả tâm trạng của người con gái sau khi lấy chồng, trong đó có hình ảnh tro của ngọn đèn tàn, hoa thạch lựu đỏ đã nở (ám chỉ mùa xuân đã qua), đợi gió lành, che mặt xấu hổ dưới ánh trăng, xe chạy lời nói nghe không rõ…, tất cả là nỗi buồn khôn nguôi.
Giọng điệu thi ca trong thơ Lý Thương Ẩn thật dị biệt, ông không mấy coi trọng cấu trúc hình thức nhưng lại chú ý nhiều đến cấu trúc hình tượng trong mối tương quan logic tổng thể. Ông đả phá cách lập ý, lập tứ và trình tự diễn biến bài thơ theo phương pháp cổ điển mà trong đó người đọc đã nắm được quy luật, nghĩa là lấy ý làm chủ, biến đổi tình cảm đối với nhu cầu tự nhiên, lấy tâm trạng của nhà thơ làm trung tâm với sự hỗ trợ của giọng điệu(37). Mặt khác, Lý Thương Ẩn thông qua sự miêu tả tình cảm chân thành của chủ thể trữ tình, dùng ngôn từ diễm lệ hàm ý đề cao phẩm cách kẻ sĩ, cung cấp cho độc giả một văn bản nghệ thuật khác lạ, đó chính là sự đóng góp của ông cho thể loại thơ “Vô đề”.
Trong qua trình miêu tả diễn biến tâm trạng, Lý Thương Ẩn luôn vận dụng “hứng thú pháp” để tạo nên khung cảnh mông lung mờ ảo nhằm tô dậm không khí bi kịch. Thủ pháp nghệ thuật này có ảnh hưởng rất lớn đến các thế hệ nhà thơ sau này (38). Cũng chính bởi tình cảm trong thơ “Vô đề” thường khái quát, cô đọng, lại bị giới hạn bởi số lượng chữ nhất định, nên, dù muốn hay không, nó cũng làm yếu đi tính đặc thù của thi ca trong sự phản ánh hiện thực lịch sử và những bất đồng thời đại qua diễn biến tâm trạng. Trường hợp Lý Thương Ẩn được xem như đi trước thời đại. Với ông, mỗi khi cần diễn đạt một tình yêu tan vỡ hoặc đau khổ bởi sự xa cách, chia ly ngoài ý muốn, là lập tức có ngay những vần thơ đầy tâm trạng làm cảm động lòng người. Xét đến cùng, bản chất chữ “tình” không bao giờ chịu sự chi phối của thời đại. Lý Thương Ẩn hình như hiểu rõ điều này nên thơ “Vô đề” của ông luôn sống mãi với các thế hệ độc giả hôm nay và cả ngày mai.
4 - Tiểu kết
Qua việc tìm hiểu thơ “Vô đề”, người đọc không khó nhận ra, Lý Thương Ẩn luôn vận dụng thủ pháp nghệ thuật độc đáo để diễn tả tình cảm chân thành. Đó cũng chính là nguyên nhân là cho thơ của ông có sức sống lâu bền mà không bị mai một bởi nghệ thuật diễn ngôn. Thơ “Vô đề” không chỉ có sự hấp dẫn về hình thức, mà hình tượng thơ còn độc đáo, từ ngữ diễm lệ, vần điệu tinh vi. Có người nhận xét, khó mà hiểu hết được ẩn ý của tác giả, nhưng lại có thể cảm được sự đa dạng của cuộc sống trong những hoàn cảnh đặc biệt nếu căn cứ vào cách diễn đạt độc đáo trong thơ ông.
Tuy nhiên, nếu nhìn từ bối cảnh thời đại, Lý Thương Ẩn là nhân vật của thơ ca ngâm vịnh cách ngày nay đã khá xa, vậy vì sao, thơ ông vẫn có sức cảm hóa, vẫn gần gũi, thân thiết với chúng ta? Đơn giản là bởi nghệ thuật biểu đạt tạo được sự cộng hưởng với tâm hồn con người. Vì vậy, thơ “Vô đề” của Lý Thương Ẩn có giá trị bất hủ. Tuy nhiên, nhận xét về Lý Thương Ẩn, Trần bá Hải lại có nhận định khác “Thơ ‘vô đề’, do sự ngụ ý quá hư không cũng vô tình tạo ra cho người đọc cảm giác mông lung, mờ ảo, khó có thể phán đoán đâu là vấn đề cốt lõi, hơn nữa, tác giả lại hay dùng điển cố, tầng tầng lớp lớp từ ngữ ẩn dụ, biến hóa linh hoạt với lớp từ tinh luyện, chọn lọc có chủ ý, làm cho tác phẩm càng thêm khó hiểu, khó phân tích, lý giải theo logic thông thường. Mà phong cách bí hiểm ấy, tất nhiên dẫn đến tình trạng “vọng ngôn” và so sánh khập khiễng, phương pháp phân tích ám chỉ, lâu dài sẽ rất ảnh hưởng đến nhận thức của độc giả.
Tuy vậy, thơ “Vô đề” cũng không thể loại bỏ những hạn chế của nó(39). Đối với thể tài này, họ Trần tỏ ý, tùy vào khả năng nhận thức của mỗi người, nhưng xét đến cùng, nó cũng không hoàn toàn giải thích được nguyên nhân khó hiểu đối với thơ Lý Thương Ẩn. Bởi lẽ, không một nhà thơ nào sáng tác mà cố ý để cho người đọc không hiểu. Cái điều mà người đời sau không giải thích được, có thể là do tư liệu sưu tầm chưa đầy đủ, hoặc là sức học của tiền nhân quá chênh lệch với chúng ta, lại giải thích theo lối “vọng gia”, dẫn đến tình trạng các học giả đời sau chỉ hiểu một cách nửa vời chăng? Vì vậy, đối với thơ “Vô đề”, không nên chỉ giải thích từng bộ phận mà phải có cái nhìn bao quát trong một tổng thể nghệ thuật, mới hy vọng giải mã được bí mật ẩn tàng sau những câu chữ mông lung, mờ ảo của .
T.T.T.

Thư mục tham khảo

I/ Sách chuyên đề (xuất bản theo trình tự thời gian):
1- Trần Vĩnh Chính tuyển chọn và chủ giải: “Lý Thương Ẩn thi tuyển”, NXB Mộc Đạc, Đài Bắc, 1987.
2- Hoàng Thịnh Hùng: “Lý Nghĩa Sơn thi nghiên cứu”, NXB Văn sử triết, Đài Bắc, 1987.
3- Ngô Điệu Công: “Lý Thương Ẩn nghiên cứu”, Minh Văn thư cục, Đài Bắc, 1988.
4- Lưu Học Khải, Vương Mông, chủ biên: “Lý Thương Ẩn nghiên cứu luận tập”, NXB Đại học Sư phạm Quảng Tây, Quế Lâm, 1998.
5- Diệp Tỷ Kỳ sơ chú: “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, Nhân dân văn học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1998.
6- Lưu Đại Kiệt: “Trung Quốc văn học phát triển sử”, Hoa Chính thư cục hữu hạn công ty”, Đài Bắc, 1999.
II/ Báo, tạp chí, luận văn:
1- Tôn Cầm An: “Dã đàm Lý Thương Ẩn cập kỳ vô đề thi”, tạp chí của Học viện Sư phạm Đường sắt, số chuyên đề “Khoa học xã hội”, kỳ 2, 1995.
2- Liêu Mỹ Liên: “Ngôn hữu tận nhi ý vô cùng - Lý Thương Ẩn vô đề thi ý cảnh mỹ thiền tích”, tạp chí của Đại học Sư phạm Lệ Thủy, số chuyên đề “Khoa học xã hội”, kỳ 1, 1996.
3- Trần Kiến Nhiệm: “Ngôn tình đích nghệ thuật luận Lý Thương Ẩn vô đề thi đích tình cảm cập trữ tình phương thức”, tạp chí của Đại học Trung Sơn, số chuyên đề “Khoa học xã hội”, kỳ 1, 1997.
4- Tôn Kim Vinh: “Tiềm trầm đích khuếch trương đích ẩn dụ - Lý Thương Ẩn vô đề thi ý tượng đích chủ yếu biểu hiện phương thức”, tạp chí Tề Lỗ (tạp chí của Đại học Sư phạm Khúc Phụ Sơn Đông), kỳ 2, 1997.
5- Tôn Kim Vinh: “Trùng phúc ý tượng dữ sáng tác tâm thái – Lý Thương Ẩn vô đề thi ý tượng đặc trưng phân tích”, tạp chí Tề Lỗ (tạp chí của Đại học Sư phạm Khúc Phụ Sơn Đông), kỳ 4, 1997.
6- Trình Hoằng Lượng: “Thí luận Lý Thương Ẩn vô đề thi đích cảm thương tình điệu”, tạp chí của Học viện Giáo dục An Huy, quyển 19, kỳ 4, tháng 7, 2001.
7- Dương Tiêu: “Lý Thương Ẩn vô đề thi đích ý tượng sơ thám”, tạp chí của Học viện Giáo dục Cam Túc, số chuyên đề Khoa học xã hội, quyển 17, 2001.
8- Khương Thái Quân: “Lý Thương Ẩn vô đề thi đích ý cảnh mỹ”, tạp chí của Học viện Công nghiêp, Chức nghiệp, Kỹ thuật Hồ Nam, quyển 2, kỳ 3, 2002.
9- Diêm Hải Linh: “Lý Thương Ẩn vô đề thi đích tư tưởng nội dung hòa nghệ thuật đặc trưng”, Tạp chí của Học viện Sư phạm Hải Nam, số chuyên đề “Khoa học xã hội nhân văn”, quyển 15, kỳ 3 (tổng số 59 kỳ), 2002.
10- Sử Chí Hoa: “Giải độc Lý Thương Ẩn đích kỷ thủ vô đề thi”, tạp chí của Học viện Giáo dục Từ Châu, quyển 17, kỳ 4, 2002.
Chú thích
(1)- Xem Sử Chí Hoa “Giải độc Lý Thương Ẩn đích kỷ thủ vô đề thi”, tạp chí của Học viện Giáo dục Từ Châu, quyển 17, kỳ 4, trang 26, 2002.
(2)-  Xem Lưu Đại Kiệt “Trung  hoa văn học phát triển sử”, Đài Bắc, Hoa Chính thư cục hữu hạn công ty, trang 553, tháng 8, 1999.
3- Xem Tôn Cầm An “Dã đàm Lý Thương Ẩn cập kỳ vô đề thi”, tạp chí của Học viện Sư phạm Đường sắt, số chuyên đề “Khoa học xã hội”, trang 5, kỳ 2, 1995.
4- Xem Hoàng Thịnh Hùng “Lý Nghĩa Sơn thi nghiên cứu”, Đài Bắc, NXB Văn sử triết, trang 188,tháng 9, 1987.
5- Xem Khương Thái Quân “Lý Thương Ẩn vô đề thi đích ý cảnh mỹ”, tạp chí của Học viện Công nghiệp, Công chức, Kỹ thuật Hồ Nam, trang 37, kỳ 3, quyển 2, 2002.
6- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, Bắc Kinh, NXB Văn học nhân dân, trang 173, tháng 8, 1998.
7- Xem Liêu Mỹ Liên “Ngôn hữu tận ý vô cùng – Lý Thương Ẩn vô đề thi ý cảnh mỹ thiển tích”, tạp chí của Đại học Sư phạm Lệ Thủy, số chuyên đề “Khoa học xã hội”, trang 24, kỳ 1, 1996.
8- Xem Trần Vĩnh Chính tuyển chọn và chú giải “Lý Thương Ẩn thi tuyển”, Đài Bắc, NXB Mộc Đạc, trang 41, tháng 7, 1987.
9- Xem Trần Bá Hải “Chẩm dạng khán đãi Lý Thương Ẩn đích vô đề thi”, Lưu Học Khải, Vương Mông chủ biên “Lý Thương Ẩn nghiên cứu luận tập”, Quế Lâm, NXB Đại học Sư phạm Quảng Tây, trang 181, tháng 1/1998.
10- Xem Khương Thái Quân “Lý Thương Ẩn vô đề thi đích ý cảnh mỹ”, Học viện công nghiệp, Công chức, Kỹ thuật Hồ Nam”, trang 39, kỳ 3, quyeenr2, 2002.
11- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 36.
12- Diệp Tỷ Kỳ cho rằng: “Bài thơ này Lý Thương Ẩn làm vào lúc ông đang giữ chức Bí thư tỉnh hiệu thư lang được bổ nhiệm làm Hoằng nông úy. Lý Thương Ẩn khi mới rời chức “Bí tỉnh” đầy tràn hy vọng, nhưng không lâu sau, bỗng nhiên lại bị điều ra làm quan ngoài, từ đó tâm trạng chán nản, buồn rầu. Nhà thơ không thể nói ra, vì thế mới dùng “Vô đề” ký thác những nỗi bất bình chứa chất trong lòng. Xem “Diệp Tỷ Kỳ sơ chú” : “ Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 137.
13- Xem Khương Thái Quân “Lý Thương Ẩn vô đề thi đích ý cảnh mỹ”, tạp chí của Học viện Công nghiệp, Công chức, Kỹ thuật Hồ Nam, trang 39, kỳ 3, quyển 2, 2002.
14- xem “Diệp Tỷ Kỳ sơ chú”: “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 397.
15- Xem Trần Bá Hải “Chẩm dạng khán đãi Lý Thương Ẩn đích vô đề thi”, Lưu Học Khải, Vương Mông chủ biên “Lý Thương Ẩn nghiên cứu luận tập”, trang 180.
16- Xem Liêu Mỹ Liên “Ngôn hữu tận nhi ý vô cùng – Lý Thương Ẩn vô đề thi ý cảnh mỹ thiển tích”, tạp chí của Đại học Sư phạm Lệ Thủy, số chuyên đề “Khoa học xã hội”, trang 25.
17- Xem Tôn Kim Vinh “Tiềm trầm đích khuếch trương đích ẩn dụ - Lý Thương Ẩn vô đề thi ý tượng đích chủ yếu biểu hiện phương thức”, tạp chí Tề Lỗ (tạp chí của Đại học Sư phạm Khúc Phụ Sơn Đông), trang 15, kỳ 2, 1997.
18- Xem Dương Tiêu “Lý Thương Ẩn vô đề thi đích ý tượng sơ thám”, tạp chí của Học viện Giáo dục Cam Túc, số chuyên đề “Khoa học xã hội”, quyển 17, trang 82, 2001.
19- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 149.
20- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”,  trang 150.
21- Xem Tôn Kim Vinh “Trùng phúc ý tượng dữ sáng tác tâm thái – Lý Thương Ẩn vô đề thi ý tượng đặc trưng phân tích”, tạp chí Tề Lỗ (tạp chí của Đại học Sư phạm Khúc Phụ Sơn Đông), kỳ 4, trang 4, 1997.
22- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 148.
23- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 148.
24- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 109.
25- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 110.
26- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 145.
27- Xem Đổng Nãi Bân “Lý Thương Ẩn thi đích ngữ tượng – phù hiệu hệ thống phân tích – kiêm luận tác gia linh trí hoạt động đích vật hóa hình thức cập kỳ văn hóa ý nghĩa”, Lưu Học Khải, Vương Mông chủ biên “Lý Thương Ẩn nghiên cứu luận tập”, trang 565.
28- Xem Trần Kiến Nhiệm “Ngôn tình đích nghệ thuật luận Lý Thương Ẩn vô đề thi đích tình cảm cập trữ tình phương thức”, tạp chí của Đại học Trung Sơn, số chuyên đề “Khoa học xã hội”, kỳ 1, 1997, trang 108.
29- Xem Vương Phú Nhân “Tinh thần đích hình tượng dữ vật chất đích hình tượng – Lý Thương Ẩn vô đề thi thưởng tích”, Lưu Học khải, Vương Mông chủ biên “Lý Thương Ẩn nghiên cứu luận tập”, trang 667-668.
30- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 139.
31- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 140.
32- Xem Trình Hoằng Lượng “Thí luận Lý Thương Ẩn vô đề thi đích cảm thương tình điệu”, tạp chí của Học viện Giáo dục An Huy, quyển 19, kỳ 4, tháng 7, trang 69, 2001.
33- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 163.
34- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 163.
35- Xem Hoàng Thịnh Hùng “Lý Nghĩa Sơn thi nghiên cứu”, trang 98.
36- Xem Diệp Tỷ Kỳ sơ chú “Lý Thương Ẩn thi tập sơ chú”, trang 396.
37- Xem Trình Hoằng Lượng “Thí luận Lý Thương Ẩn vô đề thi đích cảm thương tình điệu”, tạp chí của Học viện Giáo dục An Huy, trang 68.
38- Xem Trần Kiến Nhiệm “Ngôn tình đích nghệ thuật luận Lý Thương Ẩn vô đề thi đích tình cảm cập trữ tình phương thức”, tạp chí của Đại học Trung Sơn, số chuyên đề “Khoa học xã hội”, trang 113.
39- Xem Trần Bá Hải “Chẩm dạng khán đãi Lý Thương Ẩn đích vô đề thi”, Lưu Học Khải, Vương Mông chủ biên “Lý Thương Ẩn nghiên cứu luận tập”, trang 189.

Đặng Văn Sinh
Dịch từ nguyên tác 淺談李商隱的幾首無題詩 (Thiển đàm Lý Thương Ẩn đích kỷ thủ vô đề thi” của tác giả Trần Tư Tề.
Nguồn: http://www.lib.thu.edu.tw/newsletter/68-200705/PG05.2.htm



淺談李商隱的幾首無題詩
(Tìm hiểu về một số bài thơ “Vô đề” của Lý Thương Ẩn)
陳思齊* (Trần Tư Tề)
壹、前言
「無題詩」,是李商隱詩作中最撲朔迷離,又深深吸引後世讀者的作品。關於這類詩,李商隱曾解釋為:「楚雨含情俱有托。」從總體上來看,他的詩可能有少數另有寄託,但大多以男女相愛為題材,寫得情意纏綿,意境深幽,受到不同時代人們的高度讚賞。其詩篇可謂沉博絕麗,獨標一格,堪稱中國古代愛情詩苑中的一枝奇葩。[1]劉大杰也認為:「李商隱的『無題』一類的抒情詩篇,在藝術上具有更鮮明的特色,流傳較廣,對於後人也產生較大的影響。……我們讀了這些詩,便知道李商隱寫愛情詩手腕的高妙。他的長處,是嚴肅而不輕薄,清麗而不浮淺。有真實的情感,也有真實的體驗。抒情深而厚,造意細而深。」[2]由於這些「無題」詩感情真摯,哀婉動人,詩律精切,造境幽深,不僅音調鏗鏘和鳴,令人一唱三嘆,味之不盡,同時又和詩的色彩交織在一起,給人以音與色的交感,所以長期以來一直深得廣大讀者的喜歡。[3]甚至可以這樣說,李商隱最受人們喜歡的詩,就是他的「無題」詩。
本文所界定的無題詩的範圍只限定於以「無題」為題的部分。並透過對這些無題詩的意象、意境、情感表現等方面來探討,以期能一窺李商隱無題詩的藝術成就。基本上,唐人詩篇,習慣上皆有命題,以使人明白其旨意。所命之題,類皆明確而具體。而「無題」之詩,卻是例外的命題法,但是「無題」被非指沒有題目,而是有題目的,只是作者不願言明,也有可能是因為遺失題目而造成。林宏作認為:「李商隱之前沒有無題詩,李商隱之後,也沒有一位詩人有如此多的無題詩,總而言之,李商隱是首創無題詩的鼻祖,又是傾注心力於創作無題詩的詩人,當是無可置疑的事實。」[4]以下即針對李商隱的幾首無題詩分別說明。
貳、李商隱無題詩的意象及意境美
詩貴意境含蓄,李商隱的無題詩風格獨具,意境朦朧、深遂、含蓄。詩中的形象,初讀使人產生恍惚迷離之感,因此有人評之為「隱詞詭寄」。但如果細細吟讀這些詩篇,就會給你不同的感受,那種種意象會把你的情感自覺不自覺地引向一個特定的方向,盡興陶醉,啟人遐想,令人回味無窮。[5]以下茲舉數例說明。
《無題》(相見時難別亦難)
相見時難別亦難,東風無力百花殘。
春蠶到死絲方盡,蠟炬成灰淚始乾。
曉鏡但愁雲鬢改,夜吟應覺月光寒。
蓬山此去無多路,青鳥殷勤為探看。[6]
這首詩一開始就造成一種別離的傷感氣氛,情調是那麼低沉,意境是那麼廣遠,孤獨之感,懷人之思,盡在言外。[7]若按照字面上的意思,把它視作是寫離別相思的愛情詩是比較適當的。詩中所寫的難堪的離恨,終生不渝的追憶以及重見無期的哀傷,都非常真切感人,特別是「春蠶到死絲方盡,蠟炬成灰淚始乾」兩句,以生新的形象語言來表達詩人海枯石爛而矢志不變的愛情,感動著千秋萬代的讀者。[8]
這首詩第一、二句主要是寫他們彼此關係不尋常而且環境惡劣,無力挽救這份情感。第一句的「時」指時刻;「難」指做不到,非不容易也。「別」指分離、分手。第二句的「東風」指春風也;「無力」指我不能;「百花」是形容他們關係之美好;「殘」指的是受傷害。第三、四句主要是寫作者的自白,第三句的「絲」即是「思」的諧音寓意。第四句中的「炬」指火把;「淚始乾」指傷心是永恆的,由此也可以進一步了解,春蠶吐絲形容情感之多,蠟炬有心(芯)則代表情感之深。第五、六句則寫作者整日的情 況。第五句的「曉」指曉日;「但」指只是;「愁」指內心的恐懼;「雲鬢改」形容白髮漸漸變多。第六句的「夜」指夜晚;「吟」呻也,低沉的聲音,只心靈痛苦 所發出的哼聲;「寒」指淒寒。最後的七、八兩句主要是指作者真的很關心對方。第七句的「蓬山」指的是神仙的住處;「此」指只是;「去」指前往;「無多」指不多、不遠。第八句的「青鳥」指王母身旁的送信小鳥;「殷勤」指小心;「深」指查問。
不過,這首愛情相思的絕唱究竟有無寓意,歷來眾說紛紜。有人說:「相思」的對象是令狐綯,「蓬山」指令狐居官的翰苑,「東風無力」意謂令狐對己援手不力,「百花殘」象徵自己的淪落,而末了「青鳥探看」則是寄希望於令狐回心轉意。也有人說,相思的對象是李德裕,「蓬山」指李當時被流放的崖州,「東風無力」暗示朝政的逆轉,「百花殘」比喻李黨的貶逐,末了「青鳥探看」則是表示對李的深切懷念和慰望。[9]從這裡可以看出這是兩種截然不同的說法與解讀,所以,為了避免這種穿鑿附會之機,那麼,乾脆把這首詩當作普通的愛情詩來看,也未嘗不可。所以,當一個經歷過愛情挫折的人欣賞這首詩,意象和景象中各種感情信息立即會與他的痛苦經歷扭結在一起,而引起共鳴。由此可知,此詩的詩意在一種渾然一體、衰颯悽涼,深遠含蓄的境界中滲出並創造出朦朧幽邃,含蓄雋永的意境美,實在耐人玩味。除此之外,李商隱的無題詩還善用於多角度多層次對環境渲染烘托,用暗示的方法處理主觀意象和客觀事物,塑造情感形象,創造出朦朧的意境美。在無題詩中,往 往通過對環境的渲染描繪,時間的、空間的、色彩的、溫差的、嗅覺的、味覺的等多層次多角度地透發出各式各樣的信息,由欣賞者在自己的頭腦中拼合成詩人暗示 的形象。[10]如下:
《無題二首》之一(昨夜星辰昨夜風)
昨夜星辰昨夜風,畫樓西畔桂堂東。
身無綵鳯雙飛翼,心有靈犀一點通。
隔坐送鈎春酒暖,分曹射覆蠟燈紅。
嗟余聽鼓應官去,走馬蘭臺類斷蓬。[11]
這首詩從第一、二句可以看出作者在一個沒有月亮的夜晚,去參加了一個男女社交的活動,是由一位在社會上有地位的人所舉辦的。第三、四句指我希望我的靈魂能變成鳳凰飛到你身邊,但是我不行,你的思想似乎和我的心能相通。其中,第三句的「身」指的是生命、靈魂;「鳳」是指男的。第四句的「心」指思想;「有」指似乎;「靈犀」指通犀;「一點」則是指心。第五句的「隔坐」指的是男女分桌坐;「送釣」指藏釣;「春酒」指春天的宴會。第六句的「曹」指兩對;「射覆」即猜東西;「紅」則是指燃燒。從第七、八兩句則可以了解作者應是在京城,因其能於早晨時聽有鼓聲,於是作者馬上用跑的趕到辦公的地方--蘭臺,有一種身不由己的意味在裡頭。
有學者認為此詩首聯將四種物象聯繫在一處,點明宴會的時間、地點。在星辰閃耀的夜晚,在桂堂飄香的幽境中,詩人懷著深摯的感情,期待與意中人相會。「身無綵鳯雙飛翼,心有靈犀一點通」這句抒發了對意中人的一往情深,同時隱蘊著對政治理想的執著追求。[12]頸聯詩人呈現給讀者兩幅歡快的畫面,「春酒暖」從溫度上著筆,「蠟燈紅」則又在用色上著墨,「暖」、「紅」給人一種溫暖的感覺。前者渲染了一種溫和安逸的氣氛,後者烘托了熱烈歡快的場面。然而就在這樣一種環境裡,卻是好事難成,聚散匆匆,所留下的只是迷惘的追思。而且,詩中並沒有直接描繪出女主人公的形貌和性格氣質,但讀者卻從環境的描畫、氣氛的渲染中接受了詩人暗示的複雜信息,從而拼合成自己的那個女子的優美形象。[13]又如李商隱還常借自然景物的具體形象,將某些不可言傳的抽象情感託寓在可言明的物境裡,因而使得詩的內涵豐富而複雜,感情真摯而強烈,以物詠懷,言在此而意在彼的詩句在他的無題詩中也是隨處可見,如下:
《無題二首》之二(重幃深下莫愁堂)
重幃深下莫愁堂,臥後秘宵細細長。
神女生涯原是夢,小姑居處本無郎。
風波不信菱枝弱,月露誰教桂葉香。
直道相思了無益,未妨惆悵是清狂。[14]
詩中借幽居未嫁的女子傾訴相思的苦痛,抒發了詩人自己政治懷抱不得舒展的感慨。「神女生涯」,比喻夢幻變化的生活經歷;「小姑無郎」,寓指孤立無依的現實處境。「風波」句意謂自己出身寒微,偏又遭到險惡政治環境的摧抑;「月露」句說明個人縱有美好的才能,卻得不到培育、發展的機會。結末表示即使明知「相思無益」,也寧願癲狂自許,惆悵終身,表現了執著於理想的堅持不渝的精神。[15]由此可知,詩人將客觀現實中沒有,也不可能存在的情愫鎔鑄在完美的詩境之中,情景交融,使詩具有跌宕之致和空靈之美。可見李商隱獨創的內涵豐富而深微,因而無法明言也不能明言的無題詩,正是集中心曲的一組絕唱。那詩中的形象便是情感的身,意境於含蓄中隱伏著情感的脈絡,使人感到「韻外之致,味外之旨」。[16]
至於意象表現方面,所謂的意象,即內在之意訴之於外在之象,象者所以存意。換言之,象是意的載體和表現符號,意是象的內涵所指向的對象。[17]然李商隱的無題詩通過對殘缺意象和空白意象的成功選用,集中反映了他情感被阻、美好愛情不能實現的苦痛和煎熬,還有詩人對美好精神世界的感悟和追求,同時也曲折隱晦地表現了他坎坷蹇偃、充滿悲劇色彩的人生經歷及空靈傷感的情感演變流程。[18]在李商隱的無題詩中,尤以「眉」的意象最為典型,茲分述如下:
《無題》(八歲偷照鏡)
八歲偷照鏡,長眉已能畫。
十歲去踏青,芙蓉作裙釵。
十二學彈箏,銀甲不曾卸。
十四藏六親,懸知猶未嫁。
十五泣春風,背面鞦韆下。[19]
關於這首詩,葉蔥奇認為:「其實這只不過是自喻少負才情,長竟寥落不偶而已,十八九時可以作,二十八九時也可以作。」[20]其詩中「長眉」實指詩人之文章、文采、才氣,或者詩人之內在美質。[21]從這首詩可以看到作者自喻少年即有才華(以少女早熟為喻)。第一句的「偷」指的是暗地中。第二句指會自己化妝了。第三句的「青」指野外。第四句的「芙蓉」指蓮花;「裙衩」指裙子。第五句形容很有才藝。第六句指銀白色的假指甲,又叫義甲,都不曾拿下,形容非常認真。第七句的「藏」指藏於家。第八句的「懸」指空也,沒有作用;「猶」指依然。第九句的「泣」指悲痛,所謂泣也者,有聲無淚,血淚也。(淚已哭盡)第十句的「背面」指不讓人看到;「鞦韆」指古代女子不能出門,以鞦韆為娛樂。故從詩的內容及氣象來看,明白寫著詩人懷才不遇。
《無題二首》其一(長眉畫了繡簾開)
長眉畫了繡簾開,碧玉行收白玉臺。
爲問翠釵釵上鳳,不知香頸爲誰迴?[22]
《無題二首》其二(壽陽公主嫁時粧)
壽陽公主嫁時粧,八字宮眉捧額黃。
見我佯羞頻照影,不知身屬冶遊郎。[23]
這二首詩其實是寓託之詞。第一首上兩句暗喻釋褐出仕,下二句故作揣測、詢問語,實在是說,不知有誰能相激賞。下一首則是用壽陽初嫁,用「宮眉」,來比擬自己的初入仕途。第三句「見我」不可泥看,實在是說深自矜惜,下句暗說竟然出乎意外地遠就幕辟,仔細品玩二詩,寄託之意是顯然的。也就是說,這二首詩是明寫為虛,隱寫為實。明寫雖然畫得「長眉」,鳳冠金釵為飾;「八字宮眉」之間額心飾黃,然嬌姿紅顏卻不知為誰而適,實是從有才華韜略,卻不得施展,無處施展的不平之鳴。
《無題》(近知名阿侯)
近知名阿侯,住處小江流。
腰細不勝舞,眉長惟是愁。
黃金堪作屋,何不作重樓。[24]
從這首詩可以看到,詩人的創作情感和心態是極為複雜的,「眉」、「腰」等意象和詩的整體意象或許是包容了愛情、人生、社會等內容的多重意象的集合體。因此,對於詩中的「腰細」、「眉長」等意象單單視為代表美艷女子,而把詩的整體意象看作是簡單的豔體,恐怕是太絕對也是不太妥當的。至少葉蔥奇認為此詩:「蓋隱喻對他厚加禮遇的人,既然力足相助,何以竟不肯推薦於朝之意。」[25]這種說法顯然就不是單純的豔體所能涵括了。
《無題》(照梁初有情)
照梁初有情,出水舊知名。
裙釵芙蓉小,釵茸翡翠輕。
錦長書鄭重,眉細恨分明。
莫近彈碁局,中心最不平。[26]
從這首詩不難看出,此詩也是自比,不過其中不平之鳴更為深刻、強烈。前四句的意象與《無題》(八歲偷照鏡)有點相似,但是「細眉」傳恨,「莫近彈碁局,中心最不平」的感慨與悲憤較之「十五泣春風,背面鞦韆下」更近一層。如果說「十五泣春風」之傷感不遇更多的是對未來前途的擔憂,那麼此首便是面對現實遭遇的悲憤之慨,由此可知詩人前後創作的心態發生了很大的變化,而詩人政治生活的悲劇氛圍似乎也逐漸延伸開來,且變得更加凝重。
經由了解上述幾首無題詩,可以知道其中的意象基本是詩人才華和美質的象徵,這種才華和美質不得為用,便導致了詩人心理的失衡。也可以清楚看出意象和詩人創作心態的前後一致性、關聯性和發展變化的特點。除此之外,意境的塑造也是很重要的,因為它的對象已是詩的整體,是詩的造成的整個氛圍、情調和它所給予人們的綜合感受。[27]在這兩方面的成就,李商隱不愧是晚唐詩壇的巨擘,雖然它的詩既不同於杜甫的寫實,也不同於李白的浪漫,而是別開一面,獨創抒發內心世界的一種新體裁,是繼李杜之後又一次將唐詩推向高峰的幕後功臣,其成就是值得肯定推崇的。
參、李商隱無題詩的情感表現
情感是藝術創作的動力和核心,詩歌作為一種最善於抒情的文學體裁,抒情無疑是其基本特徵,能否成功抒寫真情,是衡量詩歌成就和價值的重要標準,古往今來,許多廣為流傳的詩篇,都是以抒情見長而具有長久的生命力。[28]而善於言情一直是李商隱無題詩的根本藝術特徵,無題詩中 的深摯感情通過婉曲的抒述方式以及營造朦朧意境、渲染悲劇氣氛等藝術手法表現出來,也成為了無題詩獨具魅力的根本原因。無題詩多以男女相思為題材,表現各種複雜的思想情緒,抒寫男女主人公對愛情的嚮往和追求,渺茫失落而帶有濃厚悲劇色彩的愛情在詩中尤為多見,無題詩在抒寫愛情生活中的離別與間阻、期待與失望、執著與纏綿、苦悶與悲憤等方面,都達到了很高的抒情藝術水平,具有震撼讀者心靈的巨大藝術力量。
因此,若從總體來看,他的無題詩多數寫得深情綿邈、精純華美,或抒傷離懷遠之意,或寫小會遽別之思,或發傷逝水隔之恨、情真語摯,婉曲纏綿,充分地體現了詩人善於言情的特長。例如他的《無題》詩(昨夜星辰昨夜風),在這首詩中,詩人抒寫了對昨夜一度春風,旋即成為間隔的 意中人的深切懷想,其癡迷而沉醉的心態,悵然若失的形象,具有很強的感染力。畢竟,兩性情境是詩人獨特的審美視角和藝術敏感點。在李商隱的無題詩中,不論是兩情歡悅的溫馨,心有靈犀的默契,還是執著相思的痛苦,淒怨悲愴的失意,莫不摻雜了詩人真摯深沉的情感,寫得情深語摯,是詩人心血和摯情的結晶。因此,為了要進一步了解李商隱無題詩的情感表現,可以從以下幾個方面來探討:
一、委婉曲折的抒情方式
李商隱的無題詩較少採用直抒胸臆的抒情方式,而特別致力於婉曲見竟,而曲折達意的抒述方式,同詩人纏綿悱惻的情思結合起來,便形成了無題詩獨特的藝術風格。例如他的《無題》詩(相見時難別亦難),這首詩開頭寫別離的痛苦,卻從會見的困難著筆,因為見面難得,離別才倍覺難受,接下來抒述離情,用「春蠶」、 「蠟炬」這一對比喻來形容纏綿執著的相思,委婉而熱烈難熬,加深了離別的愁緒,最後又回過頭來自我寬解,但也表明相思之情不能自己,全詩扣住離別寫相思,卻不限於離別當時的情景,整首詩把矛盾複雜的心理委曲盡情地抒寫出來,十分真摯動人。這種真摯的感情,深刻邈遠、纏綿悱惻,不知感動了多少的讀者。綜觀全詩,寫情寫意,寫內心感受,至深至細。「東風無力百花殘」、「春蠶到死絲方盡」、「蠟炬成灰淚始乾」,表面寫的是客觀的形象、物質的形象,實際莫不是詩人內在的精神形象,只有通過它們,才把內在精神具象化了,不僅成了可知的,也成了可感的。這裡的寫法不落俗套,具極富表現力,該詩成為古代愛情詩的翹楚,它們是起了關鍵性的作用的。[29]因此,在李商隱的無題詩中,這類作品是最有代表性的。
二、營造朦朧意境,抒寫深摯情懷
將複雜矛盾以及惆悵莫名的情緒藉助於詩心的巧妙生發,鑄造成為霧裡繁花般朦朧淒絕的詩境,是李商隱在詩歌創作中畢生追求的目標。因為對愛情感受的朦朧倘恍,所以詩人特別需要用象徵手法和美麗神話來渲染意境,需要用移情入景的方法來烘托情緒。而無題詩常常以朦朧意境的營造代替對戀愛事件本身的瑣碎描繪,例 如以下這首:
《無題四首》其一(來是空言去絕踪)
來是空言去絕踪,月斜樓上五更鐘。
夢為遠別啼難喚,書被催成墨未濃。
蠟照半籠金翡翠,麝熏微度繡芙蓉。
劉郎已恨蓬山遠,更隔蓬山一萬重。[30]
這首詩第一句的「是」指此;「空」沒有意義;「去」指離開;「蹤」指蹤跡、消息。第二句的「月」指圓月;「樓上」指房間;「五更鐘」形容等了一整夜。第五句的「半」指大部分;「金翡翠」指燃罩上的裝飾,鑲金線心的裝飾。第六句的「麝香」指少女身上的香味;「微」指一點一點;「渡」指由此而至彼;「繡芙蓉」指繡有芙蓉花的棉被。此句有暗示兩人有超友誼的關係。第七句的的「郎」指年輕人;「蓬山遠」形容感情被斷絕之苦。第八句的「隔」指被隔離;「一萬重」指一萬層的阻礙,意指我比劉郎更痛苦。全詩是以女性的口吻寫成。全詩著意摹寫纏綿悱惻的相思相憶和不知所以然的婉曲心裡,而整個相憶的心裡流程又與月、晨鐘、燭影、香暈的環境描寫層遞而下,在夢幻的交織中創造出一個淒迷哀麗的境界。由此可知,李商隱無題詩以景傳情,借景抒情,通過淒迷朦朧的意境,成功地表達出深沉真摯的情感。
三、無題詩的真摯情感通過悲劇氣氛和感傷表現出來李商隱筆下出現的愛的世界,大都是寂寞、淒楚的,而且經常伴著懷疑和絕望。例如以下這首:
《無題四首》其二(颯颯東風細雨來)
颯颯東風細雨來,芙蓉塘外有輕雷。
金蟾嚙鎖燒香入,玉虎牽絲汲井迴。
賈氏窺簾韓掾少,宓妃留枕魏王才。
春心莫共花爭發,一寸相思一寸灰。[31]
這首詩一、二句意旨一個風雨飄蕩的春天,並不是好日子,但是他(指男方)來了,可見其情感之深。第三、四句指那位男生沒有真正突破困難的勇氣,人進不來,但燒香的香總可以進來吧,假如你真正要打水,就一定會找到取水的線。從這裡也可以知道李商隱討厭愛情遇挫折就放棄的人。第五、六句主要是暗示真正的愛情是超越禮教、超越生死的。最後兩句李商隱以第三者的立場為這件事下了一個評論,他認為這個男的什麼都沒付出,所以妳的心(指女方)千萬不要像春天的花盛開,把美好的心交給他(指男方),妳一定會對這份愛情絕望。
從這裡也可以看到,李商隱善於熔詞鑄語,在含蓄深穩之中表現熾熱的感情。例如「金蟾齧轈燒香人,玉虎牽絲汲井迴」這兩句,李商隱善用表明幽阻的動詞「齧」、「牽」,來描述遠隔之境和迷離之情。又善於將副詞和動詞巧妙結合起來。又如「春心莫共花爭發」一句中「莫共」與「爭發」的巧妙連結。從此可知,李商隱無題詩中的深摯感情,通過深婉曲折的抒述方式,以及營造朦朧意境、渲染悲劇氣氛等藝術手法成功地表現出來,充分體現了無題詩善於言情的根本特色。
四、以綺麗而委婉的語言,倍增詩歌的感傷色調李商隱的無題詩語言綺美、豔麗、講究聲律、和諧、均勻、力求珠圓玉潤,在極其濃麗之中寄寓著傷情,把悲劇性的事實包裹在濃豔的外衣中,更能體現詩情的悲傷。[32]例如以下這首:
《無題》(紫府仙人號寶燈)
紫府仙人號寶燈,雲漿未飲結成冰。
如何雪月交光夜,更在瑤臺十二層。[33]
關於這首詩,葉蔥奇認為:「這是譏諷武宗李炎求仙的詩。」[34]但 是若從字面上來看,這首詩的色彩是明麗的,有紫色的仙府,有仙人的金光,有雲霞的多姿絢爛,有雪的潔白和月的迷朦,更有瑤臺的珠光寶氣,斑瀾多姿。詩之色是濃豔且富於情致的。然而正是這種極其濃麗的迷幻詩境,抒發了追求的悵惘和理想的幻滅,語言愈綺麗,其情愈傷悲。值得注意的,是義山經營這些詞語的目的,是透過場所、景物、佈置、衣飾等的綺麗美好,釀出熱烈或興奮的氣氛,以暗示作者對愛情的沉醉或嚮往。[35]
五、以涼冷的詞語,描繪愛情的空虛與無常李商隱習於運用涼冷的詞語以寫愛情的空虛無常,與運用穠麗的詞語以寫沉醉與嚮往,二者並存,且由於它們的對立性而使詩境顯得更繁富,就李商隱的總體豔情詩境而言,二者最後還是統合在空虛無常的涼冷情澈之中。而且,李商隱每於愛情變幻之時,即體悟到昔日的沉湎也不過是短暫的光輝罷了,如以下這首詩:
《無題二首》其一(鳳尾香羅薄幾重)
鳳尾香羅薄幾重,碧文圓頂夜深縫。
扇裁月魄羞難掩,車走雷聲語未通。
曾是寂寥金燼暗,斷無消息石榴紅。
斑騅只繫垂楊岸,何處西南任好風。[36]
此詩寫自己心愛的女子遠嫁後的追思,其中的金燼已「暗」,石榴紅了卻「斷無消息」,好風只能「待」,再延伸到伊人掩面羞慚,車走未語的無奈,整首詩的情緒是負面的,昔日的少許亮麗,早就被今日的陰沉所掩了。
由前述可以了解,詩歌是表情性的藝術,借助詩歌意境來表情達意,或自抒胸臆或借物抒情。李商隱的詩歌意境異乎尋常,不講究詩境中意象組合的自然順序性、表層邏輯性和物象搭配的顯性協調性,打破了人們傳統的寫詩、讀詩的認知規律,以意為主,移情於所需之自然物象,以詩人的情緒為核心去統攝有助於表情的意象。[37]而且李商隱通過自己抒寫摯情的無題詩,將香豔成份提高了品格,對香豔進入文藝領域作出貢獻。無題詩在描寫心象、物象,運用比興手法,營造朦朧意境,渲染悲劇氣氛等諸多方面,對後代詞人影響很大。[38]也正因為李商隱無題詩的情感凝煉概括,削弱了詩歌的特定時代性,反映了不同時代的普通心聲,突出了「情」的時代跨越性,即使是生活在不同時代的人們,只要體驗過愛情的挫折或苦痛,都能被李商隱優美的詩句所打動,畢竟「情」的本質是不受時代限制且可互通的,而這也是李商隱在無題詩中情感極致的表現。
肆、小結
經由對李商隱無題詩的探討,不難發現李商隱用高妙的藝術技巧,精工的表現手法,表達出深摯的情感,這也是無題詩具有歷久不衰藝術魅力的原因。當在閱讀無題詩的時候,除了為其旨意所吸引外,其中迷離的詩境、瑰麗的詞語、幽渺的神韻都深深地吸引著我們,或許不能完全了解其意旨,卻可以鮮明的感覺其不凡的生命力,所憑藉的就是李商隱獨特的表達藝術。雖然李商隱的時代背景,他所歌詠的人物,離現在已經很遠了,但他的無題詩卻那麼感人、那麼親切。若單純以詩的藝術成就來看,李商隱的無題詩已有永垂不朽的價值。陳伯海認為:「《無題》詩由於寓意過於虛空,也會給人以飄忽矇矓而不可捉摸的感覺,加上詩中好用典故,層層堆砌隱喻,章句間跳躍較大,以及煉詞傷意等,都給作品增添了晦澀費解的成分。而這種隱晦的作風,又必然導致妄為比附、影射的索隱派解詩的方法。貽害深遠, 《無題》詩也是不能辭其咎的。」[39]對於無題詩,陳氏表達了其個人的見解,但是,這種說法也不完全可以解釋李商隱「無題詩」之難解的原因,因為沒有一個詩人作詩是故意讓人看不懂,後代之所以不解,有可能是因出土資料不完全,或者是前人的學力有差又妄加解釋導致後代學者一知半解。因此,對於無題詩中不解的地方,還是留給後世有能力處理的學者來解謎是最適當的,至於李商隱在詩壇的成就及貢獻,則是應當給予肯定的評價。
*東海大學中文研究所碩士班

參考書目
一、專書部份(按出版年先後排列):
陳永正選注,《李商隱詩選》,台北:木鐸出版社,1987年。
黃盛雄著,《李義山詩研究》,台北:文史哲出版社,1987年。
吳調公著,《李商隱研究》,台北:明文書局,1988年。
劉學鍇、王蒙主編,《李商隱研究論集》,桂林:廣西師範大學出版社,1998年。
葉蔥奇疏注,《李商隱詩集疏注》,北京:人民文學出版社,1998年。
劉大杰,《中國文學發展史》,台北:華正書局有限公司,1999年。
二、期刊論文
孫琴安,〈也談李商隱及其無題詩〉,《鐵道師院學報》(社會科學版),1995年第2期。
廖美蓮,〈言有盡而意無窮--李商隱無題詩意境美淺析〉,《麗水師專學報》(社會科學版),1996年第1期。
陳建任,〈言情的藝術--論李商隱無題詩的情感及抒情方式〉,《中山大學學報》(社會科學版),1997年第1期。孫金榮,〈潛沉的擴張的隱喻--李商隱「無題」詩意象的主要表現形式〉,《齊魯學刊》,1997年第2期。
孫金榮,〈重覆意象與創作心態--李商隱「無題」詩意象特徵分析〉,《齊魯學刊》,1999年第4期,。
程宏亮,〈試論李商隱無題詩的感傷情調〉,《安徽教育學院學報》,第19卷第4期,20017月。
楊瀟,〈李商隱無題詩的意象初探〉,《甘肅教育學院學報》(社會科學版),2001年第17卷。
姜太軍,〈李商隱無題詩的意境美〉,《湖南工業職業技術學院學報》,2002年第2卷第3期。閻海翎,〈李商隱無題詩的思想內容和藝術特徵〉,《海南師範學院學報》(人文社會科學版),2002年第15卷第3期(總59期)。
史志華,〈解讀李商隱的幾首無題詩〉,《徐州教育學院學報》,2002年第17卷第4期。 
________________________________________

[1]參見史志華〈解讀李商隱的幾首無題詩〉,《徐州教育學院學報》,2002年第17卷第4期,頁26。
[2] 見劉大杰《中國文學發展史》(台北:華正書局有限公司,1999年8月),頁533。
[3]參見孫琴安〈也談李商隱及其無題詩〉,《鐵道師院學報》(社會科學版),1995年第2期,頁56。
[4] 見黃盛雄著《李義山詩研究》(台北:文史哲出版社,1987年9月),頁188。
[5]參見姜太軍〈李商隱無題詩的意境美〉,《湖南工業職業技術學院學報》,2002年第2卷第3期,頁37。
[6] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》(北京:人民文學出版社,1998年8月),頁173。
[7]參見廖美蓮〈言有盡而意無窮李商隱無題詩意境美淺析〉,《麗水師專學報》(社會科學版),1996年第1期,頁24。
[8] 參見陳永正選注《李商隱詩選》(台北:木鐸出版社,1987年7月),頁41。
[9]參見陳伯海〈怎樣看待李商隱的無題詩〉,劉學鍇,王蒙主編《李商隱研究論集》(桂林:廣西師範大學出版社,1998年1月),頁181。
[10]參見姜太軍〈李商隱無題詩的意境美〉,《湖南工業職業技術學院學報》,2002年第2卷第3期,頁39。
[11] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁136。
[12]葉蔥奇認為:「這首詩是商隱由秘書省校書郎調補弘農尉時所作。商隱初釋褐入秘省時,實在是充滿了無限希望,而歷時未久,忽然外調補尉,懊喪的心情可以想見。詩人因為不願明言,所以用無題託於豔詞來抒寫胸中的恨慨。」見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁137。
[13]參見姜太軍〈李商隱無題詩的意境美〉,《湖南工業職業技術學院學報》,2002年第2卷第3期,頁39。
[14] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁397。
[15] 參見陳伯海〈怎樣看待李商隱的無題詩〉,劉學鍇,王蒙主編《李商隱研究論集》,頁180。
[16] 參見廖美蓮〈言有盡而意無窮--            李商隱無題詩意境美淺析〉,《麗水師專學報》(社會科學版),頁25。
[17] 參見孫金榮〈潛沉的擴張的隱喻--李商隱「無題」詩意象的主要表現形式〉,《齊魯學刊》,1997年第2期,頁15。
[18]參見楊瀟〈李商隱無題詩的意象初探〉,《甘肅教育學院學報》(社會科學版),2001年第17卷,頁82。
[19] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁149。
[20] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁150。
[21] 參見孫金榮〈重覆意象與創作心態--李商隱「無題」詩意象特徵分析〉,《齊魯學刊》,1999年第4期,頁4。
[22] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁148。
[23] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁148。
[24] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁109。
[25] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁110。
[26] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁145。
[27] 參見董乃斌〈李商隱詩的語象--符號系統分析--兼論作家靈智活動的物化形式及其文化意義〉,劉學鍇,王蒙主編:李商隱研究論集》,頁565。
[28] 參見陳建任〈言情的藝術--論李商隱無題詩的情感及抒情方式〉,《中山大學學報》(社會科學版),1997年第1期,頁108。
[29] 參見王富仁〈精神的形象與物質的形象--李商隱《無題》詩賞析〉,劉學鍇,王蒙主編《李商隱研究論集》,頁667~668。
[30] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁139。
[31] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁140。
[32]參見程宏亮〈試論李商隱無題詩的感傷情調〉,《安徽教育學院學報》,2001年7月,第19卷第4期,頁69。
[33] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁163。
[34] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁163。
[35] 參見黃盛雄著:《李義山詩研究》,頁98。
[36] 見葉蔥奇疏注《李商隱詩集疏注》,頁396。
[37] 參見程宏亮〈試論李商隱無題詩的感傷情調〉,《安徽教育學院學報》,頁68。
[38] 參見陳建任〈言情的藝術
論李商隱無題詩的情感及抒情方式〉,《中山大學學報》(社會科學版),頁113。
[39] 參見陳伯海〈怎樣看待李商隱的無題詩〉,劉學鍇,王蒙主編《李商隱研究論集》,頁189。

Nguồn: http://www.lib.thu.edu.tw/newsletter/68-200705/PG05.2.htm









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét