Nhãn

Thứ Tư, 29 tháng 7, 2015

Ký ức làng Cùa (tiếp theo kỳ trước)





Ký ức làng Cùa
Tiểu thuyết của Đặng Văn Sinh


                  PHẦN THỨ HAI

Chương mười                                  

2


Toán dân quân hơn chục người dưới sự chỉ huy của Xã đội trưởng Bùi Quốc Tầm mang theo bảy khẩu súng trường, năm quả lựu đạn mỏ vịt và một cuộn thừng trâu rời làng Cùa lúc năm giờ chiều. Bọn này phần lớn là dân lực điền, chân bàn cuốc, gai đâm không thủng, chạy bộ chục cây số chẳng bõ bèn gì. Bùi Quốc Tầm con ông Bùi Khắc Nhũ, tiên chỉ làng Đậu Khê. Ông Nhũ làm nghề thiến lợn, quanh năm xách thòng lọng khắp mấy tổng Kim Đôi, Ngân Đôi, Cao Xá, đến ngõ nào cũng cất giọng lanh lảnh bằng một ngữ điệu rất truyền cảm: Thiến lợn ơ! Tài thiến lợn của Bùi Khắc Nhũ vùng Ba Tổng không ai bì kịp.Vừa vào đến cửa chuồng, con lợn chưa kịp nhận ra người lạ thì một cẳng đã bị thít thòng lọng lôi ra. Ông thợ chụm ngón tay xoa nhẹ dưới háng, gãi gãi mấy cái như một trò đùa rồi bất ngờ đưa xoẹt một đường dao làm chú ta giãy nảy lên. Chỉ một loáng, hai hạt cà đã được móc ra nằm gọn trong chiếc bát da lươn . Lấy vợ từ lúc mười sáu tuổi, đến năm ba mươi sáu vợ Bùi Khắc Nhũ đẻ liền bảy cô con gái. Trong nhà toàn vịt giời, lúc nào cũng cãi nhau chí choé, mất thớ với cánh đàn ông trong giáp, họ Bùi liền nghĩ đến chuyện đi gửi thiên hạ. Vốn sẵn máu phong tình, bác thiến lợn không khó khăn lắm trong việc thả lời ong bướm tán tỉnh các cô quá lứa nhỡ thì hoặc đàn bà goá nạ dòng. Một trong những đối tượng say Bùi Khắc Nhũ như điếu đổ là bà phó Nhu chồng chết từ ba năm trước có cô con gái câm, đã mười tám trăng tròn mà không có anh trai làng nào đánh tiếng. Ông Nhũ qua lại làng Báng chừng già nửa năm thì bà phó Nhu có mang, ít lâu sau sinh được thằng con trai mặt giống bố như tạc nhưng cặp chân lại vòng kiềng. Bà Nhũ mừng lắm dắt bảy cô con gái mang một làn trứng và cặp gà mái ghẹ sang thăm cậu quý tử và nhận bà Nhu làm chị em. Thằng cu Tầm được hơn hai tuổi thì cô Câm lại có mang. Dân làng Báng tức lắm, họ cử đám tuần đinh rình ở đống Chùa lừa bắt Bùi Khắc Nhũ tống vào bao tải quẳng xuống ngòi. Số bác thiến lợn còn may, bao không buộc túm đầu, ông ta giãy giụa một lúc, uống vài ngụm nước thì tuồn  được ra. Sau này Bùi Quốc Tầm lớn lên hay về Bối Khê thăm bố, còn ông Nhũ, cho đến cuối đời tuyệt nhiên không dám trở lại kẻ Báng.

Chuyện đáng nhớ thứ hai của ông ta là lần thiến lợn cho bà Trương Xá ở Mạc Điền. Bà Trương goá chồng từ năm ba mươi hai tuổi, tính đồng bóng, thỉnh thoảng lại đi theo đám cung văn vài ngày, giao nhà cửa cho cô em họ trông hộ. Cô này vốn lẳng lơ, nhìn thấy trai là liếc mắt đưa tình, bác hoạn lợn liếm mép thoáng nghĩ  Mẹ khỉ! Đã thế thì ông cho mày chết.
Con lợn lang đen khá to, mõm dài, lông cứng như lông nhím này bà Trương mới gây được hơn một năm, định để làm lợn cà nhưng không hiểu sao lại gọi thợ đến thiến. Chính nó, hồi tháng ba đã đớp phó Hạnh một miếng vào mông làm anh ta phải quẳng cả đồ nghề chạy bán sống bán chết. Lần này, nhìn thấy chiếc thòng lọng trong tay Bùi Khắc Nhũ, mắt con vật long sòng sọc ngoác cái mõm lởm chởm những răng là răng hộc lên một tiếng. Chuyện vặt. Ông ta có thừa kinh nghiệm xử lý những chú Trư Bát Giới cứng cổ hơn thế. Để giữ độ an toàn, Bùi Khắc Nhũ đã lừa quấn được dây thừng vào  chân sau con lợn, một tay xoa nhẹ vào mông, một tay cầm dao chuẩn bị hạ thủ. Cô em họ bà Trương cúi người giữ hai chân trước, cạp váy trễ xuống để hở một khoảng trắng ngang thắt lưng rất là khêu gợi. Lưỡi dao vừa rạch một đường vào lớp da chừng hai phân thì con lợn bất chợt oằn người hất một cú trời giáng làm cô em ngã bổ chửng. Bùi Khắc Nhũ mất đà, xoay chân định nhảy qua cửa chuồng chẳng dè bị nó đớp trúng đũng quần. Ông ta kêu thét lên như bị chọc tiết. Con lợn được tự do nhảy phốc khỏi chuồng, phóng ra cổng, chạy dọc đường làng kêu hồng hộc.
Chuyến ấy, Bùi Khắc nhũ bị mất một hạt cà phải nhờ ông lang Kỷ chữa gần hai tháng mới lành. Khỏi bệnh ông ta quẳng con dao và thòng lọng xuống sông Lăng, bỏ nghề thiến lợn chuyển sang cúp tóc. Họ Bùi có thói quen khác người, mỗi khi mua được con cá hay xâu thịt, trên đường về nhà, thỉnh thoảng lại đưa lên mũi ngửi. Người hàng xứ thấy hành vi kỳ quặc của ông ta cho là dở hơi, đứng lại nhìn liền bị chửi:
- Tiền của ông, ông mua nhìn cái đếch gì mà nhìn.
Đến nhà, việc đầu tiên là ông bắt bà vợ già hoặc cô con gái thứ ba đem xào nấu ngay, cấm được nếm, nếm thử thế nào cũng bị ăn roi. Mâm bát sắp ra, đĩa thức ăn bao giờ cũng để ngay cạnh chai rượu. Bùi Khắc Nhũ nửa nằm nửa ngồi, khuỷu tay trái chống xuống chiếu, tay phải nâng chén rượu nhấp một ngụm, sau đó cầm đũa liên tục gắp thức nhắm bỏ vào miệng. Ông hoạn lợn cứ uống, cứ nhắm cho đến khi nào thích khẩu bà vợ với mấy cô con gái mới được hưởng phần còn lại.
Năm Quý Dậu, Bùi Khắc Nhũ sáu mươi hai, bỏ tiền ra mua chân tiên chỉ. Cánh chức sắc trong Hội đồng kỳ hào ghét ông ta là phường tham ăn lại chơi trèo liền bàn nhau cho gã thiến lợn một vố. Ấy là vào dịp ông Phó hội Lĩnh làm khao. Cỗ bàn đã xong, cứ năm người một mâm mà đóng, riêng tiên Nhũ ai cũng có ý tránh, vì vậy lão tuy là chức sắc mà phải bấm bụng ngồi với đám bạch đinh ở mâm dưới. Vừa nâng chén, theo thói quen, tiên Nhũ đã chống khuỷu tay, ngả người về phía trái, bắt đầu vung đũa vào trận. Tất nhiên là cánh đàn em nhường ông ta miếng to nhất trong đĩa giả cầy. Món này là sở trường của lão mõ Lạp được nấu rất khéo, ai ăn cũng nghĩ là thịt chó. Miếng thịt vừa to vừa dai nhằng nhằng làm ông tiên chỉ quai mồm ra nhai mãi vẫn không nát, mà nuốt ngay cũng không được, vì như thế sẽ bị nghẹn, mà nghẹn khoản giả cầy giữa đình làng nơi đủ mặt quan viên thì còn ra thể thống gì. Thôi, đã trót thì phải trét vậy. Các món ăn cứ vơi dần trong khi Bùi Khắc Nhũ vẫn phải đánh vật với miếng thịt quỷ quái. Đã thế hình như bên trong còn có dây nhợ lằng nhằng mắc cả vào kẽ răng làm ông ta phải cho ngón tay vào mồm móc mãi mới gỡ được. Đến lúc ấy vị tiên chỉ làng chẳng còn giữ thể diện nữa, nhè ra tay, đưa lên nhìn thì ôi thôi, đó không phải là thịt lợn thông thường mà đích thị là miếng l… lợn sề được khâu không biết bao nhiêu là chỉ đen cho lẫn vào nồi giả cầy. Khốn nạn, không biết thằng đểu nào chơi xỏ mình đây. Mấy ông chức việc ngồi mâm trên kín đáo đưa mắt cho nhau, tủm tỉm cười. Sau vố ấy, tiên Nhũ tức mình tuyên bố từ nay không thèm ra đình làng. Lão dựng một căn lều cạnh cổng chùa Vĩnh Khang mở hiệu cắt tóc. Tay lão chỉ quen thiến dái lợn, còn tóc xén nham nhở, hầm hố như thằng đi tù về. Những lúc vắng khách, lão ngồi ngả đầu vào vai ghế, mắt lim dim, miệng ư ử ngâm Kiều:
                             Lầu xanh quen lối xưa nay
                             Nghề này thì lấy ông này tiên sư.
       Năm Bùi Quốc Tầm mười bốn, mẹ chết, chuyển về làng Đậu ở với bố. Tầm càng lớn chân càng vòng kiềng, đi đứng cứ quềnh quàng như con dế trũi bị vặt hai cẳng sau. Hắn học dốt bị thầy lấy thước lim dần vào mu bàn tay, đau quá bĩnh ra quần thối khẳn ba gian nhà, mấy hôm sau thì bỏ học theo cánh lực điền vào phường gặt thuê. Năm Canh Dần, Tầm đi lính Bảo an, sau được Việt Minh tuyên truyền, liền bỏ hàng ngũ địch về nhập đội du kích làng Đậu. Người tuy lùn nhưng Tầm có tài đánh độn thổ làm bọn Âu Phi và lính partisan đồn Tuần nhiều phen khiếp vía. Có lần, một mình anh ta dám đột nhập vào nhà bang Tuân, đâm chết hắn, đặt bản án tử hình về tội phản dân hại nước lên sập gụ. Lúc thoát ra, chẳng may chân vấp phải sợi dây thép căng ngang hàng rào làm cho con chó lài giật mình sủa dữ dội. Bọn hương dõng xách tay thước cùng giáo mác bủa vây khắp các ngõ ngách. Tầm ngó trước ngó sau, thấy không còn cách nào khác, liền nhảy bừa xuống ao nhà cửu Bình, lặn một hơi, một lúc sau thì chạm bờ, leo lên lẻn vào dãy nhà ngang. Cũng vào lúc ấy, cô Cam, con dâu ông cửu đang xay lúa, thấy một người ướt từ đầu đến chân bất chợt hiện ra, sợ quá, xuýt nữa thì kêu thét lên. Tầm vội giơ tay ra hiệu  rồi nói nhỏ:
- Tôi là du kích vừa mới giết thằng bang Tuân, bị bọn Hương dũng đuổi gấp lắm, chị cho ẩn tạm, sau này Việt Minh không quên ơn.
Cô ta cắn môi ngẫm nghĩ một lát rồi bảo Tầm chui vào bồ thóc sau đó lấy tấm chiếu rách trùm lên. Ngoài cổng có tiếng hô hoán. Tuần đinh chạy huỳnh huỵch. Bọn hương dũng khua khoắng một lúc dưới ao bèo không thấy gì liền kéo nhau vào nhà ông cửu. Chủ nhà cười nhạt bảo:
- Các anh có súng trong tay mà chịu một thằng Việt Minh à?
- Bẩm cụ, chúng con đã lục soát hết lượt, chỉ còn nhà . . .
- Anh muốn nói là nhà ta chứ gì? - Ông cửu hắng giọng  - Thế thì hãy vào tìm cho kỹ đi.
- Bẩm cụ, chúng con không dám.
Sau khi cánh hương dũng rút ra đầu làng, cửu Bình thong thả xuống nhà ngang làm  cô con dâu lúc này đang sàng gạo run bắn. Ông thản nhiên như không, bước đến bồ thóc vỗ vào chiếc chiếu bảo:
- Mời anh ra!
Tầm hết hồn, lúng túng mãi mới trèo xuống được vì đôi chân ngắn. Nhìn thái độ ông chủ nhà, biết là mọi sự đã bình yên, anh ta khoá chốt an toàn khẩu súng ngắn rồi ngập ngừng nói:
- Cảm ơn cụ cứu mạng.
 Cô con dâu lúc ấy mới dám hỏi :
- Thầy . . . thầy đã biết?
Ông cửu chép miệng:
- Biết từ lúc anh ta từ cầu ao chạy vào…
- Thưa cụ, giờ tôi xin phép.
Ông cửu lắc đầu:
- Anh phải ở đây đến tối mới đi được, bây giờ bọn tuần đinh đón lõng khắp nơi, ra khỏi nhà ta là bị bắt ngay.
Hôm sau đồn Cáo cho lính về càn Cao Điền. Chúng thay nhau đóng ở đấy ba ngày, Tầm không cách nào thoát ra được. Ban ngày anh ta xuống tranchée ngồi, chập tối mới dám lên. Cô con dâu ông cửu có chồng đi lính Bảo an, đóng mãi Đông Thị, hàng năm không về, ở nhà một mình, vắng đàn ông ngứa ngáy không chịu được, thế là hai người túng tấng với nhau. Từ đấy, thỉnh thoảng anh ta lại về làng Cao, ban đêm lẻn xuống nhà ngang ngủ với cô Cam. Thấy con trai vắng nhà mà con dâu có chửa, ông cửu Bình uất lắm nhờ người cháu họ là du kích dẫn đến gặp Lê Văn Vận. Vận bấy giờ là Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến trực tiếp phụ trách mấy xã phía nam huyện, tuyên bố Bùi Quốc Tầm phạm tội hủ hoá làm mất thanh danh đoàn thể Việt Minh, ra lệnh trói lại, giam vào nhà lao để Toà án cách mạng xét xử. Đêm ấy thừa lúc người lính gác bỏ ra ngoài, anh ta trèo tường trốn được chạy về rừng Hóp xin đầu quân cho Khúc Kiệt. Từ bấy đến nay, Bùi Quốc Tầm vẫn thù Lê Văn Vận, thiếu chút nữa thì anh ta bị xử bắn chỉ vì có quan hệ luyến ái với một cô vợ lính.
Chủ tịch Lê Văn Vận ở trong gian nhà của Uỷ ban hành chính huyện. Anh ta vừa chủ trì cuộc họp liên tịch giữa Mặt trận Liên Việt với Nông hội và Ban Thuế nông nghiệp về đến nơi thì bị toán dân quân ập vào trói nghiến lại. Lúc ấy khoảng mười giờ đêm. Khuôn viên cơ quan vắng tanh không thắp đèn đóm gì, một số người đã buông màn đi ngủ, chẳng một ai biết ông Chủ tịch bị xích tay giải đi trên đường 22. Đêm tháng một, gió bắc thổi ràn rạt. Nhưng tàu chuối tây trên bờ ngòi Thía bị tước ra bay lật phật. Một cây đề lẻ loi bên ngôi quán xiêu vẹo, dưới quầng sáng lờ mờ của vài ngôi sao đêm, hiện ra trơ trụi chẳng khác gì bộ xương san hô khổng lồ bị quái vật biển gặm nham nhở. Trên chạc cây, một con chim lạ đen trùi trũi như quạ nhưng cái mỏ lại trắng toát, to bằng con gà gô, cất giọng gừ gừ như giọng chó già nằm sưởi nắng tò mò nhìn đoàn người phía dưới thỉnh thoảng lại hộc lên một tiếng. Lê Văn Vận lúc ấy mới đẩy được cuộn giẻ bẩn thỉu ra khỏi miệng. Anh ta khạc nhổ liền mấy cái rồi hỏi một cách giận dữ:
- Các anh là ai? Sao lại bắt tôi?
Bùi Quốc Tầm khịt mũi bảo:
- Đây là lệnh của Đoàn ủy Cải cách, chúng tôi có nghĩa vụ phải chấp hành.
Vận nóng mắt quát:
- Đoàn Cải cách nào? Vì cớ gì lại đi bắt người lung tung thế này?
- Về làng Cùa sẽ biết. – Tầm cười gằn – Không phải đợi lâu đâu ông Chủ tịch huyện ạ.
Vận là người thứ hai bị giam sau bà Cả Huê trong dãy nhà dành cho các phạm nhân ở đình Cả. Sáng hôm sau, nhìn thấy Vận mặt mũi bơ phơ, râu ria tua tủa, bà Chánh mát mẻ bảo:
- Ông Chủ tịch không ngờ lại có ngày hôm nay phải không?
Vận im lặng nhìn bà Cả Huê. Mới có mấy năm mà bà ta già đi nhanh quá. Mái tóc xanh mượt như mây giờ đã lốm đốm bạc. Khuôn mặt tuy vẫn còn đầy đặn nhưng đã thoáng thấy những nếp hằn chạy song song từ đuôi mắt xuống đến vành tai. Tuy nhiên đôi mắt thì vẫn sắc sảo luôn nhìn thấu gan ruột người khác như xưa. Vận hỏi:
- Bà Cả vào đây lâu chưa?
Giọng bà Chánh  thản nhiên như không:
- Cảm ơn cậu hỏi thăm . Đội Cải cách mới giam tôi năm ngày.
- Thế còn con Huệ? Nghe nói nó . . .
- Nó đã theo Gabriel về Pháp sau đợt hai bên trao trả tù binh. Anh không phải lo.
- Chết thật! – Vận khẽ rên rỉ. – Nếu đúng là như thế thì việc của chị khó gỡ lắm.
Bà Cả thở dài:
- Đến bản thân cậu còn bị tống giam thì còn mong cứu được ai.

3

Khúc Kiệt vừa sang sông thăm Lái Lự về hôm trước thì hôm sau dân quân ập vào nhà trói lôi ra đình cùng với Ngô Quỳnh và Phó lý Kiền. Ông ta đã ngót sáu chục, người khô gầy, chòm râu mới nuôi lốm đốm bạc, bước lòng khòng vì mắc chứng đau lưng từ hồi ở rừng Hóp. Vừa nhìn thấy Xã đội trưởng Tầm , Khúc Kiệt trừng mắt hỏi :
- Ai ra lệnh cho các anh bắt tôi?
Bùi Quốc Tầm thản nhiên bảo :
- Đoàn ủy Cải cách.
- Lệnh đâu đưa xem?
Tay Xã đội giọng khinh khỉnh :
- Đối với bọn tay sai Quốc dân đảng phản dân hại nước như nhà ông, bất cứ bà con bần cố nông nào cũng có quyền đòi trả nợ máu mà không cần các loại giấy tờ, hiểu chưa?
Ông cựu Đội trưởng du kích rừng Hóp nóng tiết chửi:
- Đúng là thời buổi nước ngập chó nhảy bàn độc.
Bùi Quốc Tầm cau mày, hất hàm:
- Đưa vào nhà giam!
Tuy nhiên dãy nhà giam đã chật nên bọn dân quân đẩy khoá Kiệt vào hậu cung. Sau trận đánh đồn Tuần thất bại, Khúc Kiệt được đồn Cáo tha, Việt Minh bắt đầu nghi ngờ lòng trung thành của ông ta. Tổ chức đảng và ngành công an từ trước đến nay vốn xem khóa Kiệt như một phần tử vô chính phủ, không chịu phục tùng mệnh lệnh cấp trên thì khẳng định ông ta là kẻ phản bội, thậm chí là người của Deuxième Bureau[1] được gài vào hàng ngũ Việt Minh để làm nội ứng cho địch. Khúc Kiệt không thể chứng minh sự trong sạch của mình một khi các bằng chứng cứ ngang nhiên chống lại ông ta. Đó là Khúc Văn, đóng lon sĩ quan từng kéo quân càn quét khắp vùng Ba Tổng truy bắt Việt Minh. Sợ rằng sẽ đến lúc Việt Minh cử người đến hỏi tội, Khúc Kiệt giải tán đội du kích, bỏ rừng Hóp về làng Cùa. Làng Cùa vào tề đã lâu, lại gần bốt Tuần và có đội hương dũng mạnh dù sao cũng tạm được yên ổn. Nhưng rồi tin hàn Kiểm bên Mạc Điền bị xử tử ngay tại nhà lan ra khắp huyện Nam Thành làm ông ta sợ. Sau mấy ngày cân nhắc, khoá Kiệt thấy không còn cách nào hơn là qua sông sang làng Bòng nương nhờ ông bạn Lái Lự. Ông này đã có thời làm Chủ tịch Liên Việt, ủng hộ kháng chiến được Việt Minh tín nhiệm. Lái Lự nhờ người cháu họ là nhân viên Sở lục lộ xin cho khóa Kiệt tấm giấy thông hành. Ông ta dùng nó như một thứ bùa hộ mệnh đi qua hầu hết các đồn bốt của quân Pháp vùng tả ngạn sông Lăng.
Vào Lục An, khóa Kiệt được dẫn đến vùng trại Cóc ở nhờ nhà ông Diệp Quẩy người Sán Dìu làm  nghề thầy cúng. Ông cựu Đội trưởng du kích theo dân tản cư lận rừng kiếm sống. Dân lận rừng phần lớn rất nghèo từ vùng tạm chiếm lên, chuyên hái các thứ quả cây như trám, bứa, dọc, tai chua, tước vỏ báng hoặc đào củ nâu mang ra chợ Bầu Be bán kiếm tiền đong gạo. Loại lâm sản này rừng trại Cóc, trại Chít, trại Giang vô thiên lủng, nếu đủ sức, tha hồ khuân ra bán buôn cho thương lái từ ngả Tào Khê, Mạn Dương ngược sông lên cũng kiếm được đồng ra đồng vào. Tuy nhiên với cái tuổi năm bảy, lại bị phong thấp, công việc của khoá Kiệt không phải lúc nào cũng thông đồng bén giọt. Hái dọc, hái trám thì phải trèo cây, mà toàn cây cao, tuy nhiều quả đấy nhưng trượt chân hoặc gẫy cành rơi xuống là cầm chắc cái chết. Đó là chưa kể bất chợt bị rắn khô mộc, một loài bò sát chuyên sống trên cây có nọc rất độc cắn, hoặc ông ba mươi đón lõng lúc chập tối ở chân dốc Cáy. Từ trại Cóc ra đến chợ Bầu Be mất nửa ngày đường. Các bác lận rừng gánh hàng oằn vai, vừa leo dốc vừa thở phì phò chốc chốc lại phải nghỉ lấy sức cho chặng tiếp theo. Rừng Lục An lắm lâm thổ sản nhưng cũng đầy lam sơn chướng khí. Khối anh về đến nhà sau nửa năm hành nghề bị ngã nước, đầu trụi sạch tóc, môi thâm sì, mắt trắng dã, thỉnh thoảng lại lên cơn giật đùng đùng như bị ma xó nhập vào.
Cũng may, ở rừng Lục An được hơn một năm thì quân ta thắng trận Điện Biên, khoá Kiệt lại khăn gói quả mướp tìm về quê trong tâm trạng vui buồn lẫn lộn . Vừa đi vừa nghỉ, sang ngày thứ tư, Khúc Kiệt về đến làng Cùa thì được tin Khúc Thị Nhân đã bỏ đi, Khúc Văn bị bắt sau khi bốt Tuần bị hạ.
  Đầu tháng sáu, Khúc Kiệt sắm chiếc vó bè, cắm lều ở đoạn ngòi Mác đổ vào đầm Ma ngày ngày kiếm cá, không quan tâm đến những sự kiện đang xảy ra ở làng Cùa nữa. Nhưng Khúc Kiệt nhầm. Đội Lạc và nhất là Bùi Quốc Tầm lúc ấy mới được phân công làm Xã đội trưởng, và Lê Thị Chĩnh trong ban cốt cán, đã xem ông ta là phần tử cần phải thanh trừng ngay từ khi xã Đoàn Kết bắt đầu phát động Cải cách. Trong cuộc họp kín của ban chỉ đạo, Bùi Quốc Tầm đứng khuỳnh chân, một tay tựa vào bàn, tay kia chém lia lịa vào không khí, dõng dạc tuyên bố:
- Khúc Kiệt tự ý thành lập đội quân Áo đen, rước Nhật về làng Cùa tàn sát bảy tám chục người. Trong trận đánh bốt Tuần, hắn làm nội ứng cho đồn Cáo dẫn đến thất bại thảm hại, sau đó còn tự ý giải tán đội du kích gây tổn thất cho kháng chiến. Thằng Khúc Văn thì nghe nói đã trốn vào Nam theo giặc. Tất cả những tội ấy đã đủ điều kiện xử tử.
Lại Quang Nghinh ghét thói tiểu nhân, xu thời của Tầm, không đợi anh ta nói hết, chặn ngay:
- Ông khoá tuy có một số sai lầm nhưng là người có công với kháng chiến không thể đưa ra đấu tố như bọn địa chủ được.
Tầm liếc Nghinh hỏi:
- Thằng Khúc Văn theo Tây bắn lại đồng bào thì sao?
Nghinh khịt mũi:
- Ai làm người ấy chịu. Cả làng Cùa đều biết từ lâu, hai bố con ông khoá coi nhau như kẻ thù.
- Anh là Chủ tịch mà lại bao che cho bọn phản động à?
Lại Quang Nghinh bật lên như lò xo bị nén, chỉ mặt Xã đội trưởng:
- Này, anh có biết năm năm hai thằng nào đã xỏ nhầm giầy Tây xách súng đi càn ở Cao Đôi không?
Tầm tái mặt. Anh ta như quả bóng xì hơi ngồi im thít, lấm lét nhìn mấy ông Đội Cải cách. Nhưng rồi Lại Quang Nghinh cũng không cứu được Khúc Kiệt. Dưới con mắt của Đội, ông ta là một người phức tạp, một kẻ vô chính phủ bậc nhất ở vùng Ba Tổng. Từ lâu, Đội Lạc vẫn giữ thái độ im lặng để cánh cán bộ xã cãi nhau chán rồi mới thong thả hỏi:
- Có phải từ những năm bốn mốt, bốn hai, Khúc Kiệt đã thành lập đảng Áo đen?                                           - Dạ đúng. – Bùi Quốc Tầm trả lời như cái máy.
Lại quang Nghinh vội cải chính:
- Không phải đảng Áo đen mà là đội quân Áo đen.
- Cũng thế cả thôi. – Tầm đế thêm vào. - Quân Áo đen sau này bị cả Việt Minh và quân đội Pháp đánh bại nên đã theo đuôi Quốc dân đảng.
- Ra thế. Tôi đã bảo mà. – Cấn Viết Tham  có vẻ đắc ý vớ điếu cày rít một hơi thuốc lào phả khói mù mịt làm Lê Thị Chĩnh bị sặc:
- Cái ông này mang ra ngoài sân mà hút!
-Vậy thì mọi việc đã rõ. - Đội Lạc kết luận- Khúc Kiệt là thành phần Quốc dân đảng nguy hiểm chống phá cách mạng, cần phải đưa ra đình làng cho bà con nông dân hỏi tội.
       Vào lúc khoá Kiệt đang run cầm cập vì lạnh thì cánh cửa hậu cung mở. Mấy dân quân đẩy một người vào. Cú đẩy khá mạnh làm ông ta ngã sóng xoài, nhìn kĩ hoá ra là Lý Quỳnh. Khúc Kiệt tuy vừa đói vừa rét cũng phải bật cười khi nhìn thấy ông con rể bất đắc dĩ.
- Bây giờ ông mới vào đây là hơi muộn đấy.
Ngô Quỳnh chép miệng:
- Chuyến này chắc là tôi với ông toi rồi. Bọn chúng không thương xót ai đâu. Nhà nào có bát ăn bát để một chút là bị lên thành phần.
Khúc Kiệt cười như mếu:
- Ông nói thế chưa đúng. Như tôi đây này, tài sản chẳng có gì ngoài chiếc vó bè mà cũng bị thằng Tầm cho dân quân đến xích tay.
Ngô Quỳnh bảo:
- Tôi chưa nói hết. Lên thành phần vẫn còn là nhẹ. Nặng nhất là bị liệt vào hàng Quốc dân đảng sau đó mới đến tội làm tay sai cho Tây. Ông thuộc loại đối tượng nguy hiểm, cho nên bị tóm cổ trước cánh lý dịch chúng tôi.
Khúc Kiệt thở dài:
- Nhưng mà từ ngày đi hoạt động đến giờ tôi có biết mồm ngang mũi dọc cái thằng Quốc dân đảng nó thế nào đâu.
- Thế thì lạ nhỉ? – Lý Quỳnh liếc nhìn thân hình tiều tuỵ của ông bạn già hạ giọng thì thầm. – Nghe nói Đoàn ủy Cải cách được lệnh xử bắn theo tỷ lệ dân số. Làng ta ít ra cũng phải sáu, bẩy người.
-  Chả lẽ nhà nước Dân chủ Cộng hoà lại không tôn trọng luật pháp?
-  Ông nên nhớ, bây giờ Đội chính là luật pháp, số phận chúng ta chỉ còn trông chờ vào sự may rủi.
4
       
Đoàn ủy Cải cách mở phiên toà xét xử Chánh tổng Lê Bang. Ngay từ sáng sớm đình Cả chật cứng người. Bà con bần cố nông háo hức lắm, ai cũng muốn tận mắt chứng kiến bọn địa chủ cường hào phải cúi đầu nhận tội. Các gia đình trung nông lớp trên, phú nông và mấy hộ làm nghề thủ công hoặc buôn hàng xén còn lừng chừng bị dân quân khoác súng vào tận nhà điệu đi. Những ông bà này lấm lét nhìn nhau không ai dám nói gì nhưng trong bụng đều nghĩ, chống lại Đội họ ngứa mắt quy cho là Quốc dân đảng thì coi như tàn đời.
Làng Cùa những ngày này chia làm hai phe. Phe bần cố nông mặt tươi roi rói, suốt ngày nhảy múa ca hát mừng sự đổi đời. Lúc ấy ca khúc cách mạng còn ít, ngoài bài Giải phóng Điện Biên của Đỗ Nhuận và Qua miền Tây Bắc của Nguyễn Thành, đám thanh niên Ba Tổng rất say sưa hát Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa. Đây bao la hương sắc hoa êm đềm. Hoa lan sang mùa xuân đất Việt ... không biết do ai sáng tác. Làng Cùa du nhập rất nhanh điệu múa sạp và bài dân ca Thái Múa hái rau được thay lời mới: Ngoài đồng lúa ngát hương. Tung tăng bướm bay về ... Cứ chỗ nào có ba người trở lên là rủ nhau tìm sào múa sạp hoặc nhảy sol mi. Sol mi là một vũ khúc khá vui nhộn. Dân nhà quê vừa xướng âm vừa nhảy một cách tuỳ hứng chẳng cần đàn sáo lẫn biên đạo múa. Họ nhìn nhau co chân nhảy thách lên như con choi choi, chán thì thôi. Có cô cậu mải nhảy mắt hếch lên đập mũi vào cột nhà, toé máu ra. Khôi hài nhất là bài hát  Múa hái rau, vừa được lưu hành trong xóm Cầu Đá vài hôm không biết có thằng phản động nào nhại lời rất xỏ xiên:
 Này bà Lý toét ơi!
 Con tôi lấy con bà
 Hai đứa nó nằm đống rơm
 Quyết tâm tôi gả cho bà
 Bà về bà chặt buồng cau
 Sớm mai lên đường đón dâu.
Múa sạp thì cô Tý Mỡ con gái bà Điều nhảy lỗi nhịp bị hai cây dóc kẹp vào chân ngã dập môi. Cô Lai, cặp mông như mông lợn ỷ, bàn chân to bè bè, mỗi khi dậm xuống đất nghe thình thịch chẳng khác nào chày giã gạo nện xuống cối đá đại.
Lũ trẻ con được phân công làm vệ sinh cổng làng, ngõ xóm, những đứa lớn hơn thì quét vôi để các anh thông tin kẻ khẩu hiệu. Thằng cháu họ gọi Chánh tổng Lê Bang bằng bác kẻ một hàng chữ lớn bằng hắc ín ngay trước cổng nhà ông ta: Đả đảo tên cường hào Lê Bang. Một số thiếu niên còn được Bùi Quốc Tầm và Lê thị Chĩnh cử đi trinh sát, nghĩa là đến rình các gia đình thuộc diện nghi vấn xem động tĩnh ra sao. Nếu thấy có người lén lút ra vào hoặc kêu ca về chủ trương Cải cách ruộng đất thì các cậu này phải về báo ngay để Đội kịp thời xử lý. Phe thứ hai gồm tất cả những người, nếu không là địa chủ cường hào, nguỵ quân nguỵ quyền thì cũng ít nhiều dính dáng đến các tổ chức phản động, đã bị bắt giam hoặc đang quản thúc tại gia, chờ nhân dân xét xử. Họ như cá nằm trên thớt lúc nào cũng giật mình thon thót nếu thấy bóng dân quân trước cổng. Trong các cuộc ôn nghèo kể khổ, bình nghị thành phần, xác minh diện tích điền thổ, những đối tượng tạm thời còn tại ngoại phải đến nghe nhưng không được phát biểu. Đó thật sự là những tội phạm đã mất hết quyền công dân, gặp bần cố nông đều phải cúi đầu thật thấp chắp tay Con chào ông (bà) ạ! Người được tôn lên hàng ông bà lúc ấy hoặc “ừ” một tiếng thật hách dịch hoặc chẳng thèm nói gì, mặt vênh lên ra vẻ rất là bề trên.
 Một tối, nông dân đang bình nghị ở nhà Chánh Đàm chợt có tiếng chân chạy rình rịch ngoài đường tiếp theo là súng nổ phía ao đình. Đám bần cố nông nhốn nháo xô nhau ra cổng xem có chuyện gì thì Bùi Quốc Tầm bước vào nói dõng dạc:
- Bọn phản động thừa lúc bà con đang họp lẻn vào đốt bếp nhà đồng chí Tham nhằm mục đích gây rối trật tự an ninh, phá hoại công cuộc Cải cách. Tôi đề nghị mọi ngưòi hãy nâng cao cảnh giác cách mạng, phát hiện hành vi mờ ám của kẻ xấu để chính quyền trừng trị.
Tất nhiên không ai biết đấy là thủ đoạn của Tầm. Anh ta cho bọn tay chân thân tín bí mật nhét bùi nhùi vào mái nhà, lửa bốc lên thì kêu làng chữa cháy rồi tung tin thất thiệt, hướng sự nghi ngờ vào con cái địa chủ cường hào làm tinh thần bọn này hoang mang, nhiều kẻ không có tội mà vẫn ra đầu thú, anh nọ khai ra anh kia, làng Cùa rối beng, lúc ấy Đội Cải cách mới ra đòn quyết định.
Toàn bộ cánh cửa bức bàn được tháo xuống để những người ngoài sân cũng có thể theo dõi phiên toà. Cấn Viết Tham ngồi ghế chánh án. Bùi Quốc Tầm và Lê Thị Chĩnh Con trong vai hội thẩm nhân dân. Đội Lạc giữ chân thư ký. Sở dĩ Đội Lạc phải lãnh trách nhiệm nghi chép vì cả hai vị cốt cán đều mù chữ. Xã đội Tầm thì mới thoát nạn i tờ, mỗi khi đọc văn bản phải ê a đánh vần từng chữ một, ngắc ngứ như hóc xương cá. Vành móng ngựa được làm bằng thân cây chuối hột xếp chồng lên nhau như cũi lợn, rồi đóng bốn cái cọc dài xuyên qua đặt trên sàn đình bên trái. Lê Bang bị trói hai tay, bốn dân quân công kênh ông ta lên quẳng vào trong cũi như quẳng con chó ghẻ. Viên Chánh tổng vừa nhô đầu lên lập tức hàng trăm cái miệng ngoác ra đến tận mang tai gào lên :
  -  Đả đảo Chánh tổng Lê Bang!
  -  Đả đảo địa chủ Lê Bang!
  -  Treo cổ hắn lên!
Ngoài sân, ngay trước dãy chuồng giam, Lê Văn Vận, Khúc Kiệt, Ngô Quỳnh, Bà Cả Huê và các địa chủ cường hào bị trói hai tay, chân mang xích, lưng buộc đoạn dây thừng nối với một chiếc cối đá thủng trôn xếp theo hình vòng cung để họ tận mắt chứng kiến lòng căm thù và sức mạnh quần chúng đấu tranh giai cấp.
Người lên vạch tội Lê Bang đầu tiên là một tá điền. Bố mẹ anh ta là dân ngụ cư, được ông Chánh cưu mang. Năm Ngọ, cả nhà sắp chết đói, bà Chánh cho vay thóc mãi cuối năm sau mới trả hết. Đó là ơn chứ không phải oán. Chuyện ấy mà kể ra thì dân làng chửi cho. Nghĩ mãi tay cố nông này cũng tìm ra được một lý do. Cách đây mấy năm, một lần anh ta đi đánh giậm về, đang nghêu ngao hát trên đường thì bị con ngựa của ông Chánh chạy nước kiệu va phải ngã bổ chửng, mồm vập phải mô đất gãy mất chiếc răng cửa. Phải rồi, đấy chính là tội tày đình của tên địa chủ cường hào hành hung tá điền. Nói đi thôi. Anh ta thầm nghĩ. Mặt Đội Lạc đang hằm hằm thế kia hẳn có chuyện rồi.
-Chánh Bang! Mày có biết tao là ai không?
-Thưa... Ông là ông Đưa con cụ Đong ở xóm cầu Đá.
-Mày có biết mày có tội gì không?
-Dạ, tội... phản dân hại nước.
Đưa lắc đầu:
- Là nói tội với nhà tao kia.
Chánh Bang ngẩn người ra:
 - Thưa... Chả lẽ lại là chuyện chúng con cho ông bà vay hai thùng thóc cứu đói sau này đòi lại?
 - Không phải, chuyện ấy xem như chúng tôi mang ơn ông bà.
Đội Lạc đứng phắt dậy trừng mắt:
  - Đồng chí Đưa không được gọi địa chủ là ông bà.
Đưa lấm lét nhìn các vị quan toà miệng lẩm bẩm:
  - Người ta bằng tuổi bố mình mà lại xách mé nghe nó thế nào ấy.
Bùi Quốc Tầm hắng giọng bảo tay cố nông:
 - Đề nghị anh Đưa nói to lên cho bà con cùng nghe.
 - À, nhớ ra rồi... Một lần tao đi đánh giậm về bị con ngựa của mày đá ngã gãy răng.
 - Dạ, quả có thế. – Chánh Bang khẽ gật đầu. – Hôm ấy tôi đã mời ông lang Phê đến khám vết thương và tạ gia đình hai đồng, chắc ông còn nhớ?
- Nhớ chứ. - Chẳng hiểu sao anh chàng cốt cán nổi hứng nói liền một mạch làm Đội Lạc tức điên lên. - Bố tôi lúc ấy cám ơn ông Chánh lắm. Hai đồng bạc đong được khối thóc.
- Đề nghị đồng chí Đưa đi xuống!- Đội Lạc quát – Toàn ăn nói mất lập trường.
Theo đúng như kịch bản, Đưa đấu xong đến lượt Ứng Thị Sót, con dâu Chánh tổng Lê Bang. Sót là con gái thứ ba vợ chồng ông cả Tuất, cô này thuộc loại có chút nhan sắc, nhà tuy nghèo nhưng vẫn có những đám khá giả nhòm ngó. Con trai Lê Bang là Lê Bản say cô tá điền hơn cả thuốc phiện, mới phải lòng nhau chưa đầy hai tháng đã đòi cưới. ông Chánh thấy cô gái có vẻ thiếu đoan chính, hơn nữa gia thế lại chẳng môn đăng hộ đối nên lắc đầu bảo :
- Đám này không được, cưới con bé ấy về là sau này bại hoại gia phong.
Lê Bản thản nhiên thông báo một tin làm cả nhà sửng sốt :
- Con đã ăn nằm với cô ấy rồi.
- Lại còn thế nữa, mày thật không coi tao ra gì.
- Con lấy vợ chứ có phải thầy lấy đâu mà lo.
- Mày đừng có hỗn!
Cuối cùng giời không chịu đất đất phải chịu giời, Lê Bang bấm bụng làm đám cưới cho ông quý tử. Về nhà chồng, Sót thích nghi với vai trò bà chủ rất nhanh. Cô ta dần dần thâu tóm quyền thu chi trong nhà đẩy mẹ chồng ra rìa làm bà này uất lên thành bệnh nằm liệt một chỗ. Hai năm sau, Lê Bản đi lính Bảo an, Sót ở nhà ngứa nghề tằng tịu với hết đám Trương tuần. Điểm hẹn của họ lúc thì ở điếm  Bài Vân, lúc trong miếu Si, có khi lại ở ngay nhà bố mẹ đẻ vì lúc ấy ông cả đã quy tiên, bà Cả mắt loà chẳng nhìn thấy gì. Sau nhiều lần theo dõi, cuối cùng mấy cô em chồng cũng tóm được đôi gian phu dâm phụ khi chúng đang vui vẻ với nhau trong chiếc lều vịt của lão Nhạnh giữa đồng Chó Đá. Chuyến ấy hai đứa bị một trận nhừ tử, Trương Cói phải chịu phạt hai tạ thóc với bảy đồng Đông Dương mới được tha. Lê Bang đau lắm nhưng sợ mang tiếng với hàng tổng nên chỉ mời bà Cả Tuất sang nói chuyện rồi bắt mang con gái về. Vậy là Sót được tự do, tha hồ lăng loàn chẳng có ai quản thúc.
Mới nhìn thấy Đội Lạc, Sót đã đầu mày cuối mắt. Đội Lạc đã có vợ, chị ta thuộc loại khá gái nhưng tính tình riết róng, lại có máu ghen ngược nên bị ông chồng bỏ lửng từ lâu, giờ anh ta nhìn thấy cô nàng óng ả, mắt lúng liếng đưa tình, bất giác tâm trạng xao xuyến. Từ đó hai người ngày nào cũng tìm cớ gặp nhau, không gặp không chịu được. Cái trò trăng gió nó thế, bỏ thì thương vương thì tội. Một khi vướng phải lưới tình trời cũng bé. Tuy nhiên nhờ những cuộc họp cốt cán họ được gặp nhau thường xuyên hơn. Có lần, đêm đã khuya, hội ý xong Lạc còn kéo Sót vào hậu cung. Từ khi hậu cung trở thành nơi giam bọn cường hào thì chỗ hò hẹn của đôi tình nhân  cũng thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể.
Hôm  ấy Đội Lạc triệu tập khai hội ở nhà bà Tuất. Anh ta bảo nhà tuy chật nhưng kín đáo, tha hồ bàn bạc không sợ lộ bí mật.
Bà Cả Tuất mắc chứng đau mắt đỏ hễ có ánh mặt trời là quáng gà chẳng nhìn thấy gì. Trên trán lúc nào cũng phải che mảnh vải thâm. Cuộc họp có nhiều nội dung, đến gần trưa mới xong. Khi mọi người ra về Lạc còn nấn ná ở lại một lúc rồi kéo ngay Sót vào thùng trấu. Đã hơn một tuần không gặp nhau, hai anh chị còn đang say sưa tận hưởng phút lên tiên thì bất chợt Bùi Quốc Tầm xuất hiện. Anh ta làm như vô tình nhòm vào bếp bằng cặp mắt rất gian giảo. Khi thấy Đội Lạc vẫn còn nằm trên bụng cô cốt cán, hắn tảng lờ như không biết, vòng ra sân vờ vịt  hỏi bà Cả Tuất :
- Cô Sót đi đâu hả bà?
Bà cụ không những mù dở mà còn nghễnh ngãng, nghe tay Xã đội mãi mới thủng liền bảo :
- Em nó vừa xuống bếp hay sao ấy, bác chờ một tí.
- Nếu cô ấy về, nhờ bà nhắn hộ chiều nay xuống xóm Trại họp với chị em phụ nữ.
Tầm cố tình nói to đánh tiếng cho đôi tình nhân biết rồi xách súng ra cổng. Hai người lúc đó mới hoàn hồn mặc quần áo bước ra khỏi thùng trấu. Đội Lạc nhìn trước nhìn sau không có ai liền lách qua bờ rào sau nhà. Sáng hôm sau Đội Lạc sang Đậu Khê gặp Bùi Quốc Tầm. Lựa lúc chỉ có hai người, Lạc bảo:
-Tôi đề nghị bổ sung đồng chí vào cấp uỷ và đảm nhận chức Chủ tịch xã Đoàn Kết.
Tầm như mở cờ trong bụng nhưng vẫn làm ra vẻ không hiểu:
-Thế còn ông Nghinh? Chẳng lẽ Đội Cải cách...
-Anh Nghinh sẽ làm Bí thư thay ông Quang. Tôi vừa nhận được tin từ bà con bần cố nông, La Văn Quang năm 1949 có quan hệ với tổ chức Việt cách của Phan Trường Thái.
Vậy là cơ hội trả thù cha con Lê Bang đã đến. Phen này thì chúng mày mảnh bát vỡ cũng không có mà ăn. Bằng động tác dứt khoát, Sót ấn mạnh hai ngón tay vào trán Lê Bang bắt ông ta ngẩng lên rồi dõng dạc hỏi:
-Tên địa chủ phản động họ Lê, chắc mày không quên đứa con dâu này chứ?
Ông Chánh tổng trả lời như cái máy:
-Thưa bà... không quên,
-Mày có nhớ khi tao bị ép buộc lấy thằng Bản, bố con mày đã hành hạ tao như thế nào không?
Lê Bang từ tốn trả lời :
-Thề trên có trời, dưới có đất, nhà họ Lê chưa bao giờ ngược đãi con dâu. Việc chúng tôi trả bà về bên mẹ đẻ hoàn toàn do bà gây ra.
-Địa chủ Lê Bang câm ngay! - Sót nấc lên, giọng nghẹn ngào - Đến nước này mà mồm  mày còn xoen xoét chối tội.
-Thưa bà, tôi chỉ nói đúng sự thật.
Sót túm tóc ông Chánh giật mạnh một cái rồi quay xuống phía bà con oà lên khóc :
-Bà con ơi! Tôi thù bố con nhà nó lắm. Chồng tôi đi lính, ở nhà đêm nào lão chánh cũng vào gạ gẫm đòi ngủ với tôi. Tôi không cho nó liền trói vào giường, lột quần áo ra hành hạ suốt đêm. Có những lúc tủi nhục quá tôi đã định đâm đầu xuống giếng tự tử nhưng lại nghĩ đến bà mẹ mù loà đành phải nuốt hận mà sống cho qua ngày. Chẳng những thế, thằng em chồng là Lê Biên làm thư kí sở Dây thép về nhà lại cưỡng hiếp tôi. Nó cầm lăm lăm con dao nhọn trong tay đẩy cửa vào buồng thở ra toàn mùi rượu. Tôi sợ quá định kêu thì nó đấm vào mặt tôi đến giờ vẫn còn sẹo. Đêm hôm ấy bố con nó nhốt tôi vào căn buồng dãy nhà ngang suốt hai ngày không cho ăn uống gì.
Bên dưới, đám thanh niên bần cố nông quá khích nghe Sót kể tội phẫn nộ quá, đồng thanh hô :
- Đả đảo Chánh tổng Lê Bang!
- Đả đảo tên Việt gian bán nước Lê Bang!
Các bà các cô đều sụt sịt, trước còn khẽ sau to dần, cuối cùng cả mấy gian đình đều biến thành một cuộc khóc tập thể rất là thống thiết. Chừng năm bảy phút sau, khi những tiếng nức nở đã vơi đi, Sót kết thúc bản cáo trạng bằng những lời vô cùng đanh thép:
- Tôi đề nghị Toà án nhân dân xử tử hình Chánh tổng Lê Bang.
- Tử hình! Tử hình!
- Bắn chết hết lũ địa chủ đi bà con ơi!
Bản án được thi hành ngay buổi sáng hôm sau tại một khu đất hoang mãi cánh đồng Xưa. Từ chiều hôm trước, người ta dựng pháp trường bằng hai cây cột lớn, sau đó buộc một cây tre vắt ngang giống như bộ khung căng màn ảnh chiếu bóng. Lê Bang bị bịt mắt bằng vải đen, cổ tay cổ chân đều buộc dây thừng dài. Bốn dân quân, hai người một bên kéo ông ta lên cao cho tay chân giang ra như là con ếch trong phòng thí nghiệm sinh vật học để thử phản xạ khi cho dòng điện chạy qua. Trên kỳ đài, chánh án Cấn Văn Tham ngồi cùng với Chủ tịch Bùi Quốc Tầm, Đội Yên và cốt cán Lê Thị Chĩnh. Bảy dân quân vác những khẩu súng trường cà khổ đứng cách xa chừng mười hai, mười ba mét hồi hộp chờ lệnh. Xã đội trưởng mới được đề bạt Lương Văn Mực chỉ huy hành quyết. Người đi xem rất đông, không phải chỉ làng Cùa mà gần như cả tổng Kim Đôi mang cơm nắm muối vừng đến chầu chực từ lúc còn tối đất để được xem xử bắn lão Chánh Bang nổi tiếng hách dịnh mà nhiều người mới chỉ biết tên chứ chưa từng giáp mặt. Ứng Thị Sót, mặt tươi rói ngồi bên Đội Lạc. Anh ta không trực tiếp tham gia vào việc thi hành bản án nhưng lại là nhân vật quyết định số phận của Lê Bang.
          Mặt trời lên tầm nửa con sào, Bùi Quốc Tầm vẫy tay ra hiệu cho Cấn Viết Tham
Vị chánh  án mù chữ hơi tái mặt đứng lên đọc bản án đã thuộc lòng từ hôm trước:
-Chánh tổng Lê Bang phản dân hại nước tội ác tày trời, tại phiên xử công khai ngày hai mươi mốt tháng mười, Toà án nhân dân đã tuyên án tử hình, yêu cầu các đồng chí dân quân thi hành nhiệm vụ!
Tiếng đùng đoàng rất không đều. Loạt đạn đầu chỉ có hai viên trúng người ông Chánh còn hầu hết đều đuổi vịt giời chẳng biết do các xạ thủ bắn kém hay họ run tay khi buộc phải chĩa súng vào đồng loại. Máu từ người nạn nhân chảy dọc hai ống quần từ độ cao hai mét sáu nhểu xuống thành giọt đỏ tươi, khi thấm vào lớp đất cát pha sét phía dưới lập tức ngả mầu nâu sẫm như nước quết trầu. Bụng Lê Bang có tiếng réo lục bục như sấm rền. Một luồng uế khí phì ra phía hậu môn khuếch tán khắp bốn phương tám hướng làm tất cả những người trên kỳ đài đều phải đưa tay bịt mũi. Bùi Quốc Tầm lầm rầm chửi bọn dân quân ăn hại rồi nhảy xuống giằng khẩu súng từ tay Xã đội trưởng Lương Văn Mực quát to:
- Tất cả lên đạn!
Loạt súng thứ hai có khá hơn. Phát đạn của Tầm trúng ngực viên Chánh tổng phá ra phía sau bằng miệng chén tống làm rách toang chiếc áo cánh nâu. Một mảnh thịt lầy nhầy dính máu bay vèo xuống bãi cỏ chẳng khác gì thứ thịt chuột đồng bị mèo gặm dở. Đầu Chánh Bang ngoẹo sang một bên vai. Ông ta chết trong nỗi kinh hoàng tột đỉnh nên khi dải băng được cởi ra, cặp mắt vẫn mở trừng trừng, một dân quân thương tình vuốt mãi vẫn không khép lại được.
Huyệt đã đào sẵn. Theo lệnh Xã đội trưởng, người ta kéo xác Lê Bang quăng xuống rồi lấp đất một cách vội vàng sau đó đặt lên nấm mộ một vầng cỏ.
(Xem tiếp lỳ sau)


[1] Cơ quan tình báo quốc phòng hải ngoại của Pháp thường gọi là “Phòng Nhì”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét