Nhãn

Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2011

Ký ức làng Cùa (tiếp theo)


                      Ký ức làng Cùa

                        Tiểu thuyết của Đặng Văn Sinh

                                         Chương ba




                                                          1


Sang ngày thứ hai thuyền đến ngã ba Tam Giang. Vận sợ có người truy đuổi cứ mải miết chèo, không dám  ghé bờ. Đêm hôm ấy hắn dạt vào một cánh bãi bẻ trộm ngô non cho bà Ba luộc. Thị Lánh lúc này đã đi lại được nhưng vẫn còn yếu bởi những vết đòn thâm  tím  khắp người. ánh lửa yếu ớt hắt ra từ khoang thuyền, nhìn từ xa nhập nhoè như ma trơi. Từ đây đến kẻ Lủ chỉ già nửa ngày đường. Về kẻ Lủ rồi sẽ tính chuyện  làm ăn. Hắn đem ý định của mình bàn với bà Ba. Cô ta vừa nghe đã giãy nảy:
- Không được đâu. Dân Ba Tổng có nhiều người đi chợ kẻ Lủ. Họ mà bắt gặp thì nguy. Theo tôi, ta nên theo sông Cổ Cháy lên mạn Bắc kiếm kế sinh nhai có khi lại hơn.

Bắt đầu từ hôm ấy, Vận chèo thuyền ngược sông Cổ Cháy. Vừa đi vừa thả lưới kiếm cá. Gần nửa tháng hai người mới lên được trại Bồ Nông. Trại Bồ Nông nằm trên một mỏm núi cách bến Phù Lao không xa. Từ dưới sông có thể thấy mỏm núi giống cái đầu con chó đá cụt tai mọc toàn giống trám trắng cao ngất nghểu với những cành ngang thẳng đuột đâm tua tủa ra tứ phía. Tầng dưới thấp hơn, chen chúc đủ loại đinh chi, vàng tâm, thị mực bị dây leo quấn chằng chịt vận thành những bó lớn như những cuộn chão khổng lồ. Trên sườn dốc chênh vênh, lũ dê đen râu xồm sừng cong thong thả gặm cỏ. Mấy chú dê non ngứa sừng nghênh đầu húc nhau phớt lờ những tiếng be be như là tín hiệu cảnh báo của mẹ. Một cặp sơn tước màu xám đá nhảy tanh tách trên cành cây hoàng đàn. Chúng song ca một điệp khúc nghe khá lạ tai, thỉnh thoảng  lặng di một lúc rồi bất chợt vút lên cao, véo von như tiếng sáo trúc. Từ đâu đó mãi tận dãy Ngân Sơn xa mờ bàng bạc khói sương, đàn cò ruồi như những chấm đen lao về hướng mặt trời. Qua đỉnh Chó Sói chúng hạ dần độ cao, lần lượt bay ngang sông theo hình mũi tên. Cặp cánh của chúng mềm mại, nhịp nhàng vờn trên mặt nước như đôi tay vũ nữ múa điệu "Tản hoa" rồi hạ xuống đồng vàn ngập nước mọc toàn cỏ ba cạnh giống như cây cói trổ hoa vàng, bắt đầu một ngày kiếm ăn. Nhìn những cánh cò chao lượn trên bầu trời tự do, Vận bất giác nghĩ đến cảnh ngộ của mình. Hắn bảo bà Ba:
- Hay là ta cắm thuyền lên cái trại kia kiếm ít gạo nấu cơm ?
            Bà Ba gật đầu. Hai người lần theo từng bậc đá thoai thoải, vừa đi vừa nghỉ vì bà Ba còn mệt. Chừng nửa giờ thì gặp ngôi nhà đầu tiên. Chủ nhà là một lão già râu xồm, thọt chân, tập tễnh trên đôi nạng gỗ. Vừa nhìn thấy vị khách không mời thập thò trước cổng, lão đã nâng khẩu súng nòng dài ngoẵng trông như một đoạn ống sắt gỉ chĩa vào hắn đuổi như đuổi tà:
- Cút ngay ! Nhà anh mà tiến thêm bước nữa là ta bắn.
Vận hoảng, lấm lét nhìn chủ nhà xua tay:
- Kìa bác ! Chúng tôi là dân chài muốn lên mua gạo.
- Quân trộm cướp chết tiệt ! - Lão già vẫn án ngữ trước cửa, dựa lưng vào cây cột hiên, mắt long sòng sọc như mắt chó dại, giọng kèn kẹt chẳng khác gì bản lề cửa lâu ngày không tra dầu - Chính chúng mày đã vu cho con tao là Cộng sản rồi ném nó xuống thác Bời Lời. Con ơi là con !
- Thưa bác !
- Đồ mặt dày ! Tao thì ...
Những tiếng cuối cùng chưa thoát ra khỏi cổ họng thì lão già khuỵu xuống chẳng hiểu vì cái chân thọt hay là mới có nửa chiều đã bị thần Lưu Linh nhập vào lục phủ ngũ tạng. Mà cũng có thể do cả hai. Khẩu súng cổ lỗ sĩ lăn lông lốc xuống sườn núi. Lê Văn Vận đỡ lão đứng dậy dìu lên dốc. Bà Ba đi sau cầm khẩu súng chống xuống đất như một cây gậy. Lão già vẫn làu bàu chửi, nhưng lần này đối tượng là một tên quan châu nào đó. Tiếng chửi giống như người điên khóc nghe vừa ai oán vừa buồn cười. Chẳng mấy chốc ba người lên đến cái nơi mà dân hai bên mom sông gọi là trại Bồ Nông. Trại Bồ Nông là nơi cư trú của vài chục gia đình làm nghề khai thác gỗ và cốn bè thuê từ mấy chục năm nay. Cư dân ở đây là người tứ chiếng từ khắp các xứ đông đoài, thậm chí còn có cả bọn tội đồ bị lưu đày hoặc tù cấm cố vượt ngục nên thành phần rất phức tạp. Phần lớn trong số họ là những kẻ có bản lĩnh giỏi quyền thuật, trọng nghĩa khinh tài, giữa đường thấy sự bất bình là ra tay cứu giúp người lương thiện, trừng trị kẻ ác.
Lão già họ Lương, gốc gác tại phủ Thiên Trường, Nam Định, lưu lạc từ nhỏ, đến năm ba mươi hai tuổi thì gia nhập phường Sơn Tràng. Dân sơn tràng, nửa năm trên rừng, ba tháng lênh đênh sông nước, cuộc sống phóng khoáng như chim trời, thích tự do và liều lĩnh vào bậc nhất trong giới giang hồ. Những đêm trăng thượng huyền, cánh phu bè nằm trên sạp nứa ngắm bầu trời sao lung linh lẫn giữa những đám mây hình vẩy cá lang thang. Chúng di chuyển rất chậm, gần như trôi song song cùng chiếc bè gỗ. Mặt sông loang loáng ánh trăng xanh, tươi rói, mơ màng. Trăng lẫn vào sóng nước lăn tăn, bị pha loãng trở thành thứ màu bàng bạc, lạnh lẽo trông giống một lớp bọt xốp nổi lềnh bềnh. Rồi bất chợt từ đâu đó, những ngọn gió đẫm hơi sương vượt qua triền đê mơn man trên mặt nước sóng sánh. Gió nhẹ đến mức chỉ đủ dậy lên những tiếng lao xao nhưng dư âm của nó lại đi rất xa, rất vang. Những khoảnh khắc như thế chiếc bè là một thế giới riêng. Dường như nó không còn hiện diện như một thực thể hữu hình. Nó là ảo ảnh, là ý niệm, là sự hoang tưởng trong cõi hư vô mà tất cả những thứ ta nhìn thấy chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.
Cánh phu bè - một nửa cư dân trại Bồ Nông-  dọc ngang khắp các triền sông cùng với những chiếc bè gỗ vượt qua không biết bao nhiêu ghềnh thác. Có nhưng năm động trời, cứ qua một thác dữ, phường Sơn tràng lại mất một nhân mạng. Những kẻ xấu số phải vài ngày mới tìm thấy. Nghề chống bè là nghề mạt hạng nhất trong các nghề hạ đẳng bị người đời coi rẻ. Cùng cực lắm người ta mới phải làm nhưng đã làm rồi thì không thể bỏ được, phần nhiều đeo đẳng đến lúc thân tàn ma dại như lão Lương Đoàn kia.
Lương Đoàn được ông trùm phường thu nhận sau trận kịch chiến với một gã phu bè ở bến Đoan. Tay này đã từng học trường quyền với thầy họ Nhữ Đặng Xá. Hôm ấy Lương Đoàn bẫy cò ở mấy cánh ruộng ngoài bãi sông. Chiếc bè của ông Cả Tuân đã neo ở đấy từ hai hôm trước đợi con nước ròng. Trần Lượng tắt qua cánh bãi lên chợ Bía mua gạo, gặp mấy con cò dính bẫy, hắn gỡ sợi dây thòng lọng ở chân ra rồi thả cho nó tự do. Lúc ấy, Lương Đoàn đang ẩn trong chiếc lều vịt của lão Nhạnh mãi cuối rộc nước, nhìn thấy, chẳng nói chẳng rằng, chạy phăm phăm đón đầu tên phá đám, nện luôn. Cuộc ẩu đả xảy ra được một lúc mọi người mới báo cho ông chủ bè. Tuy võ nghệ không đến nỗi nào nhưng Trần Lượng vẫn bị Lương Đoàn dùng mấy đường quyền của lò Vịnh Xuân nện cho một trận nhớ đời. Khi anh em lôi Trần Lượng từ dưới đầm lên, người hắn lấm bê bết, đầu tóc ướt sũng còn mặt mũi thâm tím như quả bồ quân. Thấy đồng bọn bị nạn cánh phu bè ức lắm định xông vào chàng bẫy cò ra đòn hội chợ nhưng ông trùm giơ tay ngăn lại.
- Anh Lượng vô cớ thả cò của người ta bị đánh là đáng lắm. Các người ỷ thế đông định để lại tiếng xấu cho phường hạ bạc à ?
- Thưa ông trùm ! - Trần Lượng vẫn còn ấm ức, nói ,- nhưng mà thằng này nó đánh toàn đòn hiểm.
- Vậy hả ? - Ông trùm gật gật đầu - Quỳ xuống xin lỗi người ta ngay nếu không ta sẽ đưa anh ra khỏi phường.
Sau trận đụng độ ấy, Cả Tuân thu nhận Lương Đoàn. Từ đấy hắn bỏ nghề chim cò, xuống bè theo phường Sơn Tràng. ít lâu sau, ông trùm phường gả con gái cho Lương Đoàn. Chẳng mấy chốc hắn trở thành phụ tá đắc lực cho ông bố vợ vốn là một đại ca khét tiếng của giới giang hồ. Sau khi nhạc phụ qua đời, lương Đoàn nối nghiệp cai quản mấy chục anh em trong phường. Lương Đoàn có một con trai là Lương Doanh. Doanh cũng theo nghề sơn tràng rồi gia nhập một tổ chức bí mật chống Pháp do ông Phan Phi là đảng viên Cộng sản làm thủ lĩnh. Tổ chức này dần dần lan rộng ra nhiều nơi. Họ  vận động nông dân chống sưu cao thuế nặng. Thợ thuyền đòi tăng lương, giảm giờ làm thông qua những cuộc biểu tình, bãi công, bãi thị làm cho Nhà nước bảo hộ và chính phủ Nam triều khá đau đầu. Nhóm cách mạng của Lương Doanh hoạt động được hai năm thì bọn chỉ điểm của viên tuần phủ phát hiện. Bị truy đuổi, Lương Doanh rút lực lượng về bến Đoan. Một trung đội Âu Phi dưới sự chỉ huy của viên quan hai người Pháp ngược sông Ba Gia bằng chiếc tàu chiến Đuy mông xanh có cả súng liên thanh mục đích tiêu diệt bằng được những kẻ phiến loạn. Một đêm Lương Doanh cùng mấy thanh niên quần áo rách rưới, đầu tóc bù xù như tổ bồ các, da tái nhợt như người sốt rét rừng mò về trại Bồ Nông. Lương Đoàn từ lâu đã bất đồng ý kiến với con về chủ trương đánh Pháp nên ông ta dứt khoát không cho ở lại.
- ở đây không có chỗ tuyên truyền Cách mạng. Mày định đem tính mạng của mấy chục gia đình đổi lấy chút hư vinh phải không ? Muốn lên trại Bồ Nông trước hết phải bước qua xác tao.
Lương Doanh thế cùng lực kiệt đành đem các chiến hữu xuống thuyền độc mộc ngược thác Bời Lời định tìm đường về Mai Châu. Chẳng ngờ, lão tuần phủ cho hai cơ lính khố xanh đón lõng ở dốc Mật Sơn. Lương Doanh bị cai cơ Trương Phổng bắt giải về châu lỵ Hoà Bình. Ba hôm sau, tri châu Vi Văn Sầm sai người trói anh ta lại thả xuống thác Bời Lời. Thác Bời Lời cao hơn trăm thước lao thẳng xuống qua những ghềnh đá lởm chởm nhảy chồm chồm như ngựa vía, chẻ dòng nước thành hàng triệu sợi nhỏ li ti lấp loá giống hệt thứ pha lê trắng được phủ lớp sương mù. Cái xác bị biến dạng đến mức, nếu không biết chắc cuộc hành hình thì chẳng một ai có thể nhận ra nạn nhân là con trai ông trùm phường sơn tràng. Lương Doanh chết rồi Lương Đoàn vô cùng ân hận. Ông ta gần như phát điên, bỏ trại Bồ Nông đi mảng ngược sông đến thác Bồi Lời tìm con. Một lần Lương Đoàn sảy chân ngã xuống vực bị gãy xương đùi từ đó lúc nào cũng ngây ngây dại dại như kẻ mắc bệnh tâm thần phân liệt. Ngày ngày ông ta uống rượu say khướt rồi xách khẩu súng han gỉ đứng chắn lưng chừng dốc, gặp người lạ là giương súng doạ dù rằng đó là thứ hoả khí vô tích sự, thậm chí cái khoá nòng cũng đã mất từ  lâu mà không biết.
Trại Bồ Nông ái ngại cho tình cảnh của Lương Đoàn, họ cử một ông già người Khách quê Vân Nam làm trùm trưởng. Trùm trưởng Lục Kiến cũng là một tay cự phách trong làng võ thuật. Trước khi đến trại Bồ Nông, Lục Kiến giống như một hiệp khách giang hồ, không vợ con với ngón độc chiêu là bảy thế võ truyền đời rất hiểm. Đó là một thứ nhu đạo vô cùng lợi hại có nguồn gốc từ Nhật Bản mà tổ phụ của ông ta học được của một khách thương Tân Gia Ba. Biết được hoàn cảnh của Lê Văn Vận, Lục Kiến chấp nhận cho hai người ở lại trại Bồ Nông. Từ đó, chàng ngư phủ gia nhập phường Sơn tràng. Nhìn tướng mạo Lê Văn Vận, Lục Kiến bảo:
- Số anh sau này tất làm nên nhưng yểu mệnh, phải chú ý giữ gìn thì may mới qua được tuổi tứ tuần.
Trại Bồ Nông từ dịp tháng sáu tháng bẩy cho đến giáp tết Nguyên đán còn lại toàn đàn bà trẻ con. Mùa khô các ngọn nguồn sông suối đều cạn nước, tre gỗ xếp đống không mang ra được, chủ hàng lo thắt ruột nhưng dân chống bè vẫn bình chân như vại. Họ không mất vốn mà chỉ mất công. Một chiếc bè dài hàng trăm thước, toàn gỗ quý, qua hành trình dài dằng dặc lên thác xuống ghềnh không có tay chèo lão luyện, thông thạo luồng lạch thì mất sạch cơ nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Có điều phu bè là một tập hợp bát nháo, vô học và cả vô giáo dục, luôn ứng xử với nhau bằng cơ bắp nên những kẻ yếu thường bị lép vế. Vận biết rõ điều ấy nên hắn ra sức khổ luyện các thế nhu đạo mà Lục Kiến thỉnh thoảng dạy cho. Chuyến lên rừng đầu tiên bà Ba đòi đi theo. Ông trùm người Vân Nam bảo:
- ở đây thỉnh thoảng cũng có tàn pà[1] làm nghề sơn tràng nhưng vất vả tấy[2].
Bà Ba thích lắm hỏi:
- Cháu có thể học võ được không ?
Lục Kiến lắc đầu:
- Cái nghề tấm tá[3] không phải là của phụ nữ, từng pao giờ hỏi ngộ[4] việc ấy.
Phường Sơn Tràng khăn gói trên vai bắt đầu chặng hành trình đầy khổ ải. Cuộc lên ngàn của đám người tha hương trong màn mưa ngâu dai dẳng có cái gì bi tráng như là cảnh những chinh phu ngày xưa lên vùng biên ải trấn thủ lưu đồn. Họ vạch lá, cắt rừng, tìm đường mòn. Người đã quen với nghề rừng đi tiên phong dùng dao quắm phạt cành cây. Một lối mòn hiện ra lờ mờ. Những bàn chân trần nối nhau bước lép nhép. Thỉnh thoảng một người trượt chân ngã, áo quần dính bê bết thứ bùn dẻo quánh ngai ngái mùi lá mục. Những con vắt nâu ngóc cổ lên như hàng tiêu binh, thẳng tắp, chỉ cái đầu bé xíu là khẽ ngó ngoáy. Khi bàn chân đầu tiên xuất hiện, dường như có một thứ hiệu lệnh bí mật nào đó, lũ khát máu người này nhất loạt phóng tới cắm cái vòi mềm nhũn vào lớp da đã bợt bạt vì bùn nước của khổ chủ mà hút lấy hút để. Chúng cắn êm không hề gây cảm giác đau đớn cho đến khi no nê, bụng phình bằng ngón tay mới rời ra. Nhưng kinh nhất vẫn là thứ vắt xanh cư ngụ trên cành cây. Lũ này có khả năng uốn mình búng xa vài thước nếu ngửi thấy mồ hôi người. Chúng cắn nhói một cái, rất đau nên bị phát hiện ngay, vết thương lâu cầm  máu nếu không có thứ lá pạc nhì giống lá cây móc rừng dán vào. Sang đến ngày thứ hai ,Thị Lánh đã mệt lắm, hai bắp chân mỏi nhừ, bàn chân bị vắt chích, chỗ nào cũng rỉ máu. Máu trộn lẫn với bùn nâu nhão nhoét tạo thành một thứ màu đỏ sẫm giống như nước quết trầu. Một con vắt nâu vẫn còn đói bám lủng lẳng nơi khoeo chân. Bà Ba vừa thò tay dứt được con vật gớm ghiếc ấy ra bỗng rú lên ngã ngồi xệp xuống, một bàn chân gập lại bị trẹo. Lê Văn Vận vội đỡ dậy nhưng cô ta vẫn rên khe khẽ, người giật nảy như là lên cơn động kinh. Thì ra một con vắt chui vào bẹn qua lỗ thủng ống quần. Trong hoàn cảnh dở khóc dở cười này, chàng ngư phủ chẳng biết làm thế nào, đành luồn tay ngược từ phía dưới lên háng người thiếu phụ. Con vắt quái ác bám nhằng nhẵng vào chỗ nhạy cảm nhất trong cơ thể bà Ba. Tất nhiên không thể để tình trạng bi hài này kéo dài, Vận khó khăn lắm mới gỡ được con vật mềm nhũn , dai như đỉa, giải thoát cho người tình. Tiện tay hắn bóp nhẹ giữa bụng con vắt, một tia máu phọt ra, chẳng khác gì thứ tiết gà ốm mà người ta cắt vội.
Sau cú ngã của bà Ba, Lê Văn Vận phải quàng hai tay nải, dìu cô ta thập thững theo anh em trong phường. Một gã rậm râu mặt như khỉ, cặp tai rất to, trông giống loại ốc biển vẫn dùng làm tù và nửa đùa nửa thật:
- Nếu đằng ấy cho mượn một tối tớ sẽ tình nguyện cõng người đẹp đến tận Phiềng Soi.
Thấy Vận im lặng, Quản Thực, một tay đầu trộm đuôi cướp đã từng hành nghề mấy năm ở kẻ Sòng, nhăn nhở cười:
- Bằng lòng đi, có mất gì đâu, cuối cùng cô ấy vẫn là vợ cậu mà lại được lợi.
Lúc ấy Vận từ tốn bảo:
- Tôi gặp đường cùng, may ông trùm cho nhập phường kiếm miếng cơm, nếu các bác không có lượng bao dung chúng tôi đành đi nơi khác vậy.
Nói rồi hắn dìu bà Ba quay lại. Có người báo với Lục Kiến. Ông ta lập tức túm ngực Quản Thực cho hai cái bạt tai, xỉa bàn tay cứng như thép vào sườn tên rậm râu:
- Ngộ cấm các người dở trò trêu ghẹo chị em trong phường à! Piết[5] chưa ?
Rừng ướt sũng nước. Đường mòn vắt qua sườn dốc chênh vênh hẹp đến nỗi chỉ sẩy nửa bàn chân là rơi xuống vực. Ba bề bốn bên là đại ngàn mênh mông cao chót vót. Những cây cổ thụ tán lá rậm rạp chen lấn với các loại lim, lát hoa, sao dầu, gụ ... vốn là thảm thực vật nguyên sinh tầng tầng lớp lớp nối nhau thành hình khối dày đặc, mông lung, bí hiểm. Mưa tháng bảy làm cho rừng nhợt nhạt, nặng nề và buồn chán. Mấy chú chích choè lông dính bết lại lười nhác đậu trên cành cây sao, nhìn thấy đám lữ hành nhếch nhác luồn phía dưới với những bước uể oải, nặng nề liền cất giọng ai oán hót những tiếng buồn thảm như là phần vĩ thanh của một khúc nhạc tang. Thấp hơn một chút là lũ vượn đen ngồi vắt vẻo trên ngọn cây gió xanh. Bọn này đang khốn khổ vì trời ẩm ướt nên hễ có thì giờ rảnh rỗi không phải kiếm ăn là chải lông bắt bọ chét cho nhau. Một con vượn đực có vẻ là đầu đàn đang nhằn quả chuối chín vàng. Quả chuối toàn là hạt làm nó bực mình vừa ăn vừa nhổ phì phì vào lũ vượn cái. Ngay dưới thung lũng là rừng chuối trải dài, xanh đến vô cùng. Chính những cây chuối cao đến vài chục thước ấy, hàng năm đã sinh ra ngàn vạn quả mập mạp, vàng ươm, thơm phức nhưng vô tích sự bởi toàn hạt là hạt, đến mức khỉ vượn còn nhăn mặt mỗi khi nếm thử. Những hạt mưa li ti bị gió đẩy nhẹ, rơi xiên trông chẳng khác gì những sợi tơ mỏng manh như tơ nhện dệt ngang dọc tạo thành tấm màn nước xanh khổng lồ treo lơ lửng giữa bầu trời u ám.
Đêm đầu tiên đoàn lữ hành nghỉ tạm trong một ngôi nhà sàn còn sót lại của bản người Mường. Chủ nhân có lẽ đã làm cuộc thiên di đến vùng đất mới từ lâu nên quang cảnh rất tiêu điều. Sàn nhà bằng tre bương đập dập mục nát, gẫy từng đoạn. Sau một ngày mệt mỏi, ăn xong, mọi người lăn ra ngủ mê mệt. Vận nằm cạnh bà Ba chắn giữa những người khác. Chừng quá nửa đêm, bà Ba vừa chợp mắt được một lúc vì chân vẫn còn đau tự nhiên có cảm giác buồn buồn trên bụng. Cô ta định trở mình quay mặt về phía Vận nhưng không được bởi một thân hình nặng nề đang trườn lên người trong khi chiếc quần đi rừng đã bị kéo xuống tận bẹn lúc nào không biết. Phải khó khăn lắm Thị Lánh mới kêu lên được một tiếng. Cùng lúc Vận tỉnh giấc biết ngay chuyện gì xảy ra. Hắn ngồi dậy dùng thế võ mới học được của Lục Kiến thoi một quả khá mạnh vào hướng mà hắn nghi là gã rậm râu đang giở trò đểu cáng. Cú ra đòn khá lợi hại. Chỉ nghe đến hự một cái, tên ma cô bật khỏi sàn rơi xuống đất kèm theo những tiếng răng rắc của đoạn tre gẫy. Phía bên kia Lục Kiến thức giấc làu bàu:
- Tứa[6] nào mê ngủ ngã xuống gầm sàn à ?
Không có tiếng trả lời. Gần như tức thời ông trùm phường lại ngáy pho pho. Cánh sơn tràng sau một ngày ngược dốc mệt nhọc, ngủ như chết chẳng cần biết chuyện gì đã xảy ra. Gã râu rậm rón rén bò lên cầu thang chen vào nằm cạnh Quản Thực. Từ lúc ấy, Vận cảnh giác lúc nào cũng ôm lưng bà Ba, luồn tay vào ngực giữ chặt hai bầu vú nóng hổi. Nhưng cũng chính vì thế hắn không ngủ được. Hắn thấy hối hận vì đã mang người tình tới một nơi xa lạ hoàn toàn không có gì đảm bảo cho tương lai dù là tương lai gần. Rằng cái lũ người mà hắn đi theo chỉ là một bọn táp nham sống ngoài vòng pháp luật. Chúng sẵn sàng nhảy vào cắn xé nhau có khi chỉ vì những nguyên nhân rất vớ vẩn. Một ý nghĩ thoáng qua: "Hay là cùng với Lánh bỏ quách nơi này quay lại trại Bồ Nông trước khi trời sáng ?". Nhưng rồi chàng ngư phủ lại tự nhủ : "Quay lại thì sống như thế nào, làm gì khi bản thân mang án giết người đang bị quan nha truy nã ? Thôi, chót đâm lao thì phải theo lao. Đành vậy."
Trời vẫn mưa như rây bột. Hành trình của ngày hôm sau còn khổ hơn nhiều. Bởi vì họ còn phải xuyên qua rừng Tủa Chang bạt ngàn là nứa. Những vệt đường mòn lầy lội còn hằn rõ dấu chân thú kiếm ăn đêm. Thỉnh thoảng có tiếng sột soạt từ bụi cây nào đó. Một con gà sặc sỡ, lông đuôi vổng lên như đuôi công bay từ cây vân sam xuống gò đất mọc thứ hoa mẫu đơn dại đỏ tím như mào của nó. Dưới chân gò, mấy con mái tơ lông xám bạc đang cục cục tìm mồi. Trần Phí, một gã trai người Tày có khuôn mặt ốm đói, đi trước dùng dao phát rừng mở đường. Do bất cẩn anh ta bị cật nứa cứa vào tay, sâu đến tận xương, máu toé ra thấm ướt đẫm chiếc khăn bông xơ. Trần Phí đau quá, mặt tái mét, tay phải bóp chặt vết thương rên rỉ. Lê Văn Vận vội vạch lối rẽ cây tìm vào một khe nước. ít phút sau, hắn nhai dập mấy thứ lá hái được với vài hạt muối đắp vào ngón tay anh chàng ốm đói. Vết đứt toang hoác, chạy dài trông lạnh cả gáy. Chừng mấy phút, máu ngừng chảy nhưng Trần Phí thì bắt đầu lên cơn sốt.
Phải đến ngày thứ bẩy, phường Bồ Nông mới đến được ngọn nguồn Phiềng Soi là điểm khai thác gỗ của những người sơn tràng. Đối với phường Bồ Nông, nghề sơn tràng và nghề chống bè không khác nhau là mấy, cho dù từ xưa đến nay thiên hạ vẫn coi đó là hai lĩnh vực hoàn toàn độc lập. Cũng như những chú Khách đồng hương vùng Đại Lý khác, Lục Kiến chưa bao giờ để cho cái đầu hói của mình bị chi phối bởi khái niệm "chuyên môn hoá" của mấy gã Pháp Lan Tây mắt xanh mũi lõ. Đã không ít lần ông trùm phường nhận bao thầu trọn gói từ các chủ hàng có máu mặt, chẳng phải chỉ chặt gỗ cốn bè mà còn làm luôn cả công đoạn vận chuyển về xuôi qua những hành trình vượt thác mà nếu chỉ sơ sẩy chút ít là vỡ bè, chết người.
Rừng Phiềng Soi nằm cạnh con đường mòn chạy song song với suối Đá Đen. ở khoảng giữa con đường và thung lũng Nậm Cắn là bản Tả Pay của người Thái thuộc tổng Bình An. Dải rừng nguyên sinh bắt đầu từ ngã ba suối Đá Đen kéo dài đến chân đèo Váng bạt ngàn là lim xanh hai ba người ôm. Những cây lát hoa cổ thụ vỏ nâu sẫm, xù xì nằm chênh vênh bên sườn dốc. Loại gỗ tứ thiết gần nguồn nước như thế phần lớn đã có chủ.
Phường Sơn Tràng hoặc dân cốn bè trước sau cũng chỉ là những kẻ làm thuê. Người thuê họ ở mãi Kẻ Chợ hoặc các quan lại trong chính phủ Nam triều cậy thế lắm bạc nhiều tiền, đứng trên cả pháp luật, coi thường sinh mạng của đám dân đen. Có những bận, bọn Tây kiểm lâm lên rừng đón lõng ở Bãi Sang, thế  là cả thầy lẫn tớ phải cuốn gói, bỏ của chạy lấy người và nếu không nhanh chân còn bị tống vào nhà lao kèm theo khoản phạt vạ không dưới hai trăm đồng Đông Dương.
Dịp ấy, sau khi cánh thợ hạ xong hàng chục cây gỗ lim to như cột tam quan trên dải rừng Mụ Bà, Lục Kiến cho anh em nghỉ một ngày săn bắn. Lão Cầu thọt và bà Ba vừa trông lán vừa nấu cơm. Quản Thực bị sốt rét nằm rên hừ hừ. Phường Sơn Tràng có hai khẩu Mút, ba khẩu Anhđôsinoa[7] và mấy khẩu súng kíp bắn đạn ghém mua được của dân bản. Ngoài ra mỗi người còn được trang bị một ngọn mác hoặc dao quắm để phòng bất trắc. Lần này họ vào thung lũng Pò Mày tìm lợn rừng. Cách đây mấy hôm Trần Phí phát hiện một đàn chừng bẩy tám con, cứ tầm mặt trời gác ngọn Chiềng Băng lại rủ nhau lội qua suối đá Đen, sang phá nương sắn của bản Tả Pay. Rừng Phiềng Soi sau tháng mưa ngâu xanh biếc lộc non, ríu ran tiếng hót của đủ các loại chim. Trên vòm cao như chiếc lọng khổng lồ của cây đinh hương, một con khướu bạc má chỉ bằng nắm tay mà giọng oang oang như tiếng kèn xắc xô phôn được hệ thống tăng âm khuyếch đại. Mấy chú khỉ mặt choắt, lông sẫm, cặp mắt đen láy và linh động như hai hòn bi ve, nhìn thấy người chẳng biết sợ là gì, vẫn mải miết chơi trò đánh đu, thỉnh thoảng lại trêu nhau kêu khèng khẹc. Đi săn mà gặp phải buổi rừng ồn ào như cái chợ thế này thì thợ săn về tay không là cái chắc. Lục Kiến lẩm bẩm rồi cúi xuống nhặt hòn đá ném con khướu lắm mồm. Phía bên này, gã rậm râu có cái tên rất chướng tai là Ngô Nghệ Toánh, thường gọi Toánh xồm và cu Sún, con trai Lâm Quang Tào, chết mất xác trong chuyến vỡ bè ở thác Khôn năm Mão, đang lần theo dấu chân đàn lợn. Vết chân còn mới nhưng ra đến bờ suối lại mất hút. Hắn ngồi bệt xuống tảng đá sát mép nước vừa càu nhàu vừa gỡ những con vắt bám ở bắp chân:
- Lũ lợn chết tiệt, chẳng lẽ chúng có phép tàng hình mà biến sạch không để lại dấu vết.
Cu Sún giục:
- Hay là ta về. Trời cũng sắp tối rồi bác ạ.
- Về là thế nào. - Toánh hậm hực bảo - Bọn này thường kiếm ăn từ lúc nhập nhoạng. Mày bảo các ông ấy chịu khó ở lại, đêm nay thế nào cũng tóm được một con.
- Nhưng cháu đói lắm rồi.
- Từ chiều đến giờ tao cũng đã ăn gì đâu. - Toánh gườm gườm nhìn thằng bé - Cố chịu một lúc nữa nếu không thấy động tĩnh gì thì ta về. Chả biết hôm nay là ngày gì mà xúi quẩy thế.
Lê Văn Vận xách khẩu súng kíp nòng dài dáng vẻ vừa đói vừa uể oải bước đến. Toánh xồm đánh mắt liếc hắn một thoáng rồi hỏi:
- Có thấy gì không ?
- Không. Tôi nghĩ anh Phí nhầm.
- Không thể có chuyện nhầm lẫn ở đây được. - Nghệ Toánh khẳng định - Trần Phí là người Tày rất có kinh nghiệm trong việc phân biệt dấu chân các loại thú rừng.
- Vậy thì cho thằng Sún về trước. Tôi thấy nó có vẻ mệt quá rồi.
- Cũng được nhưng bảo nó rẽ qua chỗ Trần Phí bảo hắn không đón lõng ở khe Bầu mà về đây ngay.
Trời lắc rắc vài hạt mưa. Gió lặng và rừng đột nhiên trở lại yên ắng. Cu Sún vừa quay đi được vài bước thì xuất hiện. Đó là một con lợn độc cao lớn đen trùi trũi với hai chiếc nanh dài trắng nhởn thò ra khỏi mồm từ trên sườn dốc lao xuống làm đám cây mỏ vẹt và những cành gai ba tiêu đổ rào rào như bị lở đất. Lập tức ba người tản ra dựa vào các gốc cây hướng nòng súng dõi theo con thú. Chưa bao giờ họ nhìn thấy con lợn to và dữ dằn như thế. Trong bụng anh nào cũng hoảng, nhất là Lê Văn Vận. Dưới ánh trăng non, chốc chốc lại bị những cồn mây xám với đủ mọi hình thù kỳ dị, lười nhác trôi ngang, thành ra đêm thượng tuần đáng lẽ lung linh huyền ảo thì lại tối mò như chốn âm cung. Con thú bước hùng hục, cái mũi khịt khịt đánh hơi rồi lần ra bờ suối. Nó vừa dợm chân định nhảy ào xuống nước thì Nghệ Toánh nổ súng. Con lợn khựng lại mấy giây rồi bất ngờ đổi hướng. Nó quay ngoắt lại phóng về phía gã râu xồm với tốc độ không thể ngờ. Nghệ Toánh vừa kịp thay đạn khẩu súng mút, chạy ngang sang gò mối đã bị cái nanh khủng khiếp của con thú dữ cắm vào mạng sườn. Cú ra đòn của nó mạnh đến nỗi khẩu súng văng xa hàng chục thước. Tuy vô cùng khiếp đảm nhưng đúng vào lúc ấy Lê Văn Vận và thằng Sún cũng kịp thời nổ súng. Hai phát đạn cách nhau chừng một giây. Con lợn bị thương lại càng kích động. Nó rống lên một tiếng rồi lao thẳng vào đám khói khét lẹt mùi diêm sinh mà khẩu súng kíp của Lê Văn Vận vừa nhả đạn. Biết là khó thoát, hắn hốt hoảng nhìn trước nhìn sau, chợt thấy cây dẻ cổ thụ ngay phía bên phải liền đánh đu vào một cành ngang trước mặt rồi leo lên. Thật may cây dẻ có một chạc ba cách mặt đất chừng bốn năm thước. Lê Văn Vận chọn tư thế ngồi thật vững rồi xoay nòng súng về phía con lợn đang gầm gừ chạy vòng phía dưới. Hắn gọi cu Sún:
- Mày dìu bác Toánh về lán ngay đi, tao giữ chân con lợn. Nhớ vòng lối suối. Nhanh lên. Nó mà phát hiện ra thì nguy.
Nói xong, Lê Văn Vận nhằm con lợn bắn phát nữa. Có lẽ viên đạn chệch hướng. Con thú hộc lên một tiếng rồi xáp vào gốc cây dẻ dùng cặp nanh to bằng cổ tay nhọn hoắt moi đất. Tiếng đào rễ cây lục cục nghe gai cả người. Tuy gốc cây rất lớn, con vật khó có thể quật đổ, nhưng với sức mạnh ma quỷ, nó hất đất đá rào rào vẫn làm chàng ngư phủ run bần bật. Hắn thầm nghĩ: "Giờ mà rơi xuống thì khốn nạn". Trong lúc tâm thần bất định chưa kịp bắn phát thứ ba thì chẳng may khẩu súng rơi xuống đất. Con lợn độc khịt khịt mấy tiếng thăm dò rồi điên cuồng dùng hai chân sau dẫm nát thứ vũ khí chết người vừa mới trước đây mấy phút còn khạc lửa vào nó. "Phen này chắc toi mạng thật" . - Vận vừa ôm chặt cành cây vừa nghĩ . Hắn sợ đến mức nhắm tịt hai mắt, không dám nhìn xuống dưới nữa. Trong khi ấy, con mãnh trư vẫn chạy loang loáng quanh gốc cây, vừa thở hồng hộc và cày xới đất đá với tất cả lòng hận thù man dại.
Đến gần sáng con lợn mới bỏ đi mang trên mình mấy vết thương. Dưới gốc cây dẻ thực sự là một bãi chiến trường. Những chiếc rễ cỡ bắp đùi bị moi hết đất trơ ra cùng với lớp vỏ cây bị vạc nham nhở như người ta dùng rìu đẽo. Đất đá bị cái mõm vừa dài vừa cứng của con thú cày lên tụ thành đống như tổ mối, đôi chỗ dính những vệt máu đã ngả màu nâu xỉn. Không còn một thứ thảo mộc nào đứng vững quanh cây dẻ trong vòng hai chục bước chân. Tất cả đã trở thành một khối hỗn độn mang tính huỷ diệt vượt xa khả năng tưởng tượng của con người.

















[1] tàn pà :  đàn bà
[2] tấy      : đấy
[3] tấm tá :  đấm đá
[4] ngộ     : tôi, ta
[5] -piết : biết
[6] Tứa : đứa

[7] -Anhđôsinoa (Indochinois): một loại súng trường cổ của Pháp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét