Nhãn

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư liệu lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư liệu lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2016

Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long



Thụy Khuê
 

Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
 Chương 4 
Tác phẩm của John Barrow (1764-1848)
 Phần 2 
Hành trình Bá Đa Lộc

Về Bá Đa Lộc Barrow viết trong chương IX:
"Trong thời gian Tây Sơn nổi dậy ở Nam Hà, ba anh em giết vua [Định Vương Nguyễn Phước Thuần] và tất cả những người bị bắt, gia quyến và tuỳ tùng; ở trong triều có một giáo sĩ người Pháp, tên Adran [tức Bá Đa Lộc, chức Giám Mục Adran], trong nhiều văn bản in trong tập "Lettres édifiantes et curieuses", tự nhận là khâm sứ của Giáo Hoàng ở Nam Hà.
Vị giáo sĩ này rất thân với hoàng gia và cũng nhận được nhiều ân huệ, ông đã lập ở đây một họ đạo và nhà vua, thay vì đán áp, lại che chở. Nhà vua rất tin tưởng ở người này, dù khác đạo, đã giao cho việc dạy dỗ người con trai duy nhất của ông, người sẽ nối nghiệp. [Chỗ này Barrow nhầm Nguyễn Ánh với Định Vương]. Adran, ngay từ những ngày lửa đạn đầu tiên của cuộc khởi loạn, đã thấy, ông và bạn hữu, muốn sống còn, phải trốn tránh.
Nhà vua đã bị địch bắt, nhưng hoàng hậu, hoàng tử, các con và một người chị hay em, được Adran cứu thoát. Nhờ đêm tối, họ rời xa kinh thành [Gia Định] và trốn vào rừng. Ở đấy, trong nhiều tháng, vị vua trẻ của nước Nam cũng như một ông Charles mới [chỉ Charles I (1625-1649) vua Anh và Ái Nhĩ Lan], trốn cùng với gia đình, không dưới lùm cây sồi rậm rạp mà dưới lùm đa hay bồ đề vì [thiêng] ở đây không ai dám xâm phạm. Một nhà tu công giáo tên Paul [Paul Nghị, tức Hồ Văn Nghị] liều mình đem đồ ăn mỗi ngày, cho đến khi [quân đội đi lùng] không còn tìm kiếm nữa và sau cùng được lệnh rút về.
Sau khi quân thù rút lui, những người đi trốn trở về Sài Gòn, dân chúng kéo nhau đến dưới cờ của vị vua chính thức, được họ tôn lên làm vua dưới tên của cha ông, vị vua cuối cùng, Caun-shung.
Cùng thời điểm này có chiến hạm Pháp do một người tên là Manuel điều khiển, đậu ở Sài Gòn cùng với 7 tầu buôn Bồ Đào Nha và rất nhiều thuyền buồm và tầu Trung Hoa. Theo lời khuyên và sự giúp đỡ của Adran, hạm đội Bồ nhập trận [đánh Tây Sơn] với khí giới được trang bị bí mật, tấn công chớp nhoáng hạm đội địch đậu ở Qui Nhơn. Gió mùa thận tiện. Đoàn chiến hạm xông vào vịnh nơi hạm đội địch đang bỏ neo bất động. Được cấp báo, quân địch lên tầu, đổ xô ra đánh, chiến hạm Pháp thua, người Pháp không tiếc lời ca tụng lòng dũng cảm [của Manuel]. Bọn chỉ huy tầu Bồ bỏ chạy tuốt sang tận Macao. Ông hoàng trẻ tuổi tỏ ra cam đảm và điềm tĩnh nhưng vì ít quân đành phải rút lui" (Barrow II, t. 200-202).

Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2016

Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long



Thụy Khuê
 

Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
 Chương 4 
Tác phẩm của John Barrow (1764-1848)
 Phần 2 
Hành trình Bá Đa Lộc

Về Bá Đa Lộc Barrow viết trong chương IX:
"Trong thời gian Tây Sơn nổi dậy ở Nam Hà, ba anh em giết vua [Định Vương Nguyễn Phước Thuần] và tất cả những người bị bắt, gia quyến và tuỳ tùng; ở trong triều có một giáo sĩ người Pháp, tên Adran [tức Bá Đa Lộc, chức Giám Mục Adran], trong nhiều văn bản in trong tập "Lettres édifiantes et curieuses", tự nhận là khâm sứ của Giáo Hoàng ở Nam Hà.
Vị giáo sĩ này rất thân với hoàng gia và cũng nhận được nhiều ân huệ, ông đã lập ở đây một họ đạo và nhà vua, thay vì đán áp, lại che chở. Nhà vua rất tin tưởng ở người này, dù khác đạo, đã giao cho việc dạy dỗ người con trai duy nhất của ông, người sẽ nối nghiệp. [Chỗ này Barrow nhầm Nguyễn Ánh với Định Vương]. Adran, ngay từ những ngày lửa đạn đầu tiên của cuộc khởi loạn, đã thấy, ông và bạn hữu, muốn sống còn, phải trốn tránh.
Nhà vua đã bị địch bắt, nhưng hoàng hậu, hoàng tử, các con và một người chị hay em, được Adran cứu thoát. Nhờ đêm tối, họ rời xa kinh thành [Gia Định] và trốn vào rừng. Ở đấy, trong nhiều tháng, vị vua trẻ của nước Nam cũng như một ông Charles mới [chỉ Charles I (1625-1649) vua Anh và Ái Nhĩ Lan], trốn cùng với gia đình, không dưới lùm cây sồi rậm rạp mà dưới lùm đa hay bồ đề vì [thiêng] ở đây không ai dám xâm phạm. Một nhà tu công giáo tên Paul [Paul Nghị, tức Hồ Văn Nghị] liều mình đem đồ ăn mỗi ngày, cho đến khi [quân đội đi lùng] không còn tìm kiếm nữa và sau cùng được lệnh rút về.
Sau khi quân thù rút lui, những người đi trốn trở về Sài Gòn, dân chúng kéo nhau đến dưới cờ của vị vua chính thức, được họ tôn lên làm vua dưới tên của cha ông, vị vua cuối cùng, Caun-shung.
Cùng thời điểm này có chiến hạm Pháp do một người tên là Manuel điều khiển, đậu ở Sài Gòn cùng với 7 tầu buôn Bồ Đào Nha và rất nhiều thuyền buồm và tầu Trung Hoa. Theo lời khuyên và sự giúp đỡ của Adran, hạm đội Bồ nhập trận [đánh Tây Sơn] với khí giới được trang bị bí mật, tấn công chớp nhoáng hạm đội địch đậu ở Qui Nhơn. Gió mùa thận tiện. Đoàn chiến hạm xông vào vịnh nơi hạm đội địch đang bỏ neo bất động. Được cấp báo, quân địch lên tầu, đổ xô ra đánh, chiến hạm Pháp thua, người Pháp không tiếc lời ca tụng lòng dũng cảm [của Manuel]. Bọn chỉ huy tầu Bồ bỏ chạy tuốt sang tận Macao. Ông hoàng trẻ tuổi tỏ ra cam đảm và điềm tĩnh nhưng vì ít quân đành phải rút lui" (Barrow II, t. 200-202).

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long



Thụy Khuê
 

Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long


Chương 4


Tác phẩm của John Barrow (1764-1848)

Phần 1

Vào Google đánh chữ Olivier de Puymanel, Wikipédia Pháp, thấy ghi: "Olivier de Puymanel "là một nhà kiến thiết và là người tổ chức quân đội Việt Nam dưới triều đại nhà Nguyễn". Wikipédia Việt, ghi: "Olivier de Puymanel là người giám sát thi công toà thành bát quái, theo thiết kế của kỹ sư người Pháp, Théodore Lebrun", ông "đã huấn luyện cho hơn 50.000 quân Nguyễn, còn Jean-Marie Dayot thì lo về thuỷ quân". Ý chính được truyền tụng khắp nơi trên thế giới, trở thành "sự thực" cho đến ngày nay là: "Puymanel là cha đẻ của các thành trì xây theo kiểu Vauban tại Việt Nam trong thế kỷ XIX".
Tất cả những "thông tin" loại này thoát thai từ sự xác định của các sử gia thuộc địa, cách đây hơn 100 năm, rằng Bá Đa Lộc và những "sĩ quan" Pháp đã giúp Gia Long "dựng lại cơ đồ".
Đã đến lúc chúng ta cần phải khảo sát lại những "công trạng" này. Đâu là sự thực? Đâu là huyền thoại?
Những học giả Pháp như Maybon, Cadière, đều trách Đại Nam Thực Lục, không nhắc nhở đủ đến công trạng của những người Pháp này.
Vậy chúng ta cũng phải điều tra xem Thực Lục và Liệt truyện thiếu sót ở chỗ nào.
Công việc đầu tiên của sự khảo sát này là tìm xem, những tác giả Tây phương đương thời viết gì về giai đoạn này.


Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

Nguyên nhân và hậu quả của Hiệp đinh Genève 1954

Nguyên nhân và hậu quả của Hiệp định Genève 1954


Trần Đức Tường.

N
gày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève về Việt Nam đã được ký kết. Vĩ tuyến 17 đã là ranh giới chia đôi hai miền đất nước. Gần một triệu người miền Bắc đã rời bỏ quê hương di cư vào Nam. "Chấm dứt một cuộc chiến tranh bằng biện pháp chia đôi lãnh thổ sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh khác...". Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ đã không ký tên vào bản Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Một nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng dân tộc Việt Nam không thể nào quên được cái ngày đau thương khi giang san một giải đã bị chia cắt bởi dã tâm của thực dân và cộng sản.
Không có tham vọng viết sử, tiểu luận này chỉ nhằm nhắc lại những biến cố, những hậu quả của việc chia đôi đất nuớc hầu đáp ứng phần nào nhu cầu tìm hiểu về một quá khứ gây nhiều ẩn ức của các thế hệ trẻ ngày nay. Tiến bộ khoa học cộng với thời gian đủ dài để ta có thể phóng tầm nhìn tìm về hoàn cảnh Việt Nam sau Thế Chiến Thứ Hai, về cuộc Chiến Tranh Đông Dương (1946-1954) với trận đánh Điện Biên Phủ, về Hội Nghị Genève và bản Hiệp Định đình chiến ngày 20/07/1954, về cuộc Di Cư vĩ đại của đồng bào miền Bắc vào Nam, về những vết thương hằn sâu trên da thịt dân tộc Việt Nam gây ra bởi giòng sông Bến Hải...

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2011

Lục lại chiến tranh Việt Nam

Lục lại tài liệu về chiến tranh Việt Nam
CWIHP
Thảo luận giữa Kiều Quán Hoa, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc và Đại sứ Việt Nam Ngô Minh Loan
Ngọc Thu dịch
Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đã qua rồi nhưng tài liệu làm nên diện mạo nhiều mặt của nó thì chưa được cập nhật đầy đủ. Đó sẽ là một khó khăn rất lớn cho những ai muốn dựng lại một bộ tín sử về thời đoạn lịch sử quan trọng này. Biết được yêu cầu của chúng tôi, một số cộng tác viên có ý định từ nay sẽ cung cấp dần những tài liệu quý hiếm đã nằm trong kho lưu trữ của các nước nhưng chưa được bạch hóa tại Việt Nam. Mở đầu là bài dịch dưới đây, tiếp nối bài của chính dịch giả đã in trên trang mạng Đàn chim Việt mà chúng tôi xin phép in lại trong phần phụ lục. Đương nhiên, đây là những tài liệu mà độ phần trăm thật giả chưa được lượng định. Tuy vậy ít nhiều chúng cũng cung cấp cho ta những bức tranh đa dạng nhiều kích cỡ, nói lên những thuận lợi cũng như những khó khăn trắc trở mà Việt Nam phải tìm mọi cách để vượt qua trong cuộc chiến gay go của mình.

Bauxite Việt Nam