Đặng Văn Sinh
Tôi
quen mới quen biết Vũ Ngọc Tiến vài
năm nay nhưng đọc của ông thì từ lâu rồi, chí ít là tập “Rồng đá” với ba truyện
ngắn quỷ khốc thần sầu: “Chù Mìn Phủ và tôi”, “Âm bản chiến tranh” và “Vị phồn
thực”. Đó là chưa nói đến tiểu thuyết “Quỷ vương”, một tác phẩm khiến nhà văn
Hà Nội chính gốc được liệt vào danh sách... phải thường xuyên “chăm sóc”.
Nhưng
đến “Hà Nội và tôi” thì khác. Cuốn sách dày ba trăm trang do nhà xuất bản Hội
Nhà văn cấp giấy phép, lại đích thân giám đốc tổng biên tập Nguyễn Quang Thiều
viết lời giới thiệu như một sự đảm bảo bằng vàng, nên đương nhiên được phát
hành bình thường.
Cái
khác ở “Hà Nội và tôi” không phải ở bút pháp. Bởi lẽ, “giang sơn dễ đổi, bản
tính khó dời”, dù là truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự hay văn chính luận, Vũ Ngọc
tiến bao giờ cũng đẩy ngòi bút đến tận cùng, dữ dội, thậm chí cực đoan, mà là ở
cách ông tìm về quá khứ, khai mở ký ức đem đến cho người đọc những cung bậc cảm
xúc khác nhau về một Hà Nội thanh lịch, tử tế xứng đáng là đất Thăng Long ngàn
năm văn vật nhưng dường như... một đi không trở lại.
Dưới
con mắt Vũ Ngọc Tiến, Thăng Long chỉ còn là hoài niệm, một thứ “phú quý giật
lùi”, do những biến động xã hội đã trở thành quá vãng.
Theo
thiển ý của chúng tôi , “Hà Nội và tôi” là tập truyện ký, mà ở phần “Hoài niệm
Thăng Long”, Vũ Ngọc Tiến sử dụng hồi ức như một biện pháp ẩn dụ ngầm so sánh
quá khứ với hiện tại để chứng minh sự suy thoái của một nền văn hóa đất Kinh Kỳ
do chính con người gây ra một cách có ý thức. Muốn xây dựng được giá trị sống tốt
đẹp một dân tôc phải mất đến vài thế hệ vun trồng, bồi đắp, nhưng hủy hoại nó lại
rất nhanh, có khi chỉ cần một cuộc chiến tranh ý thức hệ, một cuộc “cách cái mạng
nó đi” là tất cả lại trở về điểm xuất phát. Khi ấy con người sẽ hành xử với
nhau theo một chuẩn mực khác, có thể lành mạnh hơn, nhưng phần nhiều là dốt
nát, hãnh tiến hơn, vô đạo đức nhưng đầy quyền lực bởi phông văn hóa mỏng và thừa
thói hợm hĩnh, kiêu ngạo. Cụ đồ Vũ Duy Huệ trong “Đạo học người Hà Nội xưa” hay
ông “vua tơ tằm Đông Dương” trong “Chuyện doanh nhân Mỹ Bảo” là hai minh chứng
rất có sức thuyết phục cho phong cách sống mẫu mực của người Hà Nội: trung thực,
tín nghĩa, thủy chung như nhất. Vậy thì câu hỏi đặt ra phía sau những trang
“hoài niệm” ấy là, vì sao ngày trước người Thăng Long có nếp sống đẹp qua sự
tôn sự trọng đạo, giữ gìn chữ tín và ứng xử với nhau tình nghĩa đến như vậy? Rằng
vì cơn cớ gì mà phong hóa người Hà Nội xuống cấp đến mức thảm hại khiến cho
ngay cả những cư dân gốc gác Thăng Long xưa, sau mấy chục năm ăn nhờ ở đậu xứ
người, giờ trở về thấy mình lạc lõng giữa một thành phố xa lạ nhếch nhác?
Hà
Nội một thời được xem như mẫu mực của văn hóa phương Đông. Sau khi người Pháp
sang khai hóa, Thăng Long với tư cách là thuộc địa nhưng chỉ mấy chục năm đã trở
nên một thành phố sầm uất với những khu phố Tây, cầu Doumer, phủ Toàn Quyền,
Nhà Hát Lớn và hàng loạt công trình kiến trúc hoành tráng, là niềm tự hào mà
các quốc gia trong khu vực không dễ gì có được. Trí thức Tây học xuất hiện ngày
càng nhiều cùng với trí thức Hán học trong lòng xã hội phong kiến nửa thuộc địa
đang trên đường Âu hóa, nhưng có điều lạ là, người Hà Nội vẫn giữ được bản sắc
văn hóa truyền thống.
|
Nhà văn Vũ Ngọc Tiến
|
Văn
hóa cộng đồng tồn tại là bởi sự tích hợp từ những hạt nhân của nó mà quan trọng
nhất văn hóa gia đình, dòng họ. Một khi các nấc thang giá tri thay đổi hoặc đổ
vỡ tất yếu văn hóa cộng đồng sẽ băng hoại. Vì thế, ở một mức độ nào đó, ta có
thể xem, “Hà Nội và tôi” là cuốn sách viết “Lời ai điếu” cho một nền văn hóa
đang chết lâm sàng nếu những nhà quản lý ở cấp vĩ mô không có ngay biện pháp chấn
hưng. Cứ nhìn vào bố cục tác phẩm, người đọc dù vô tâm đến mấy cũng nhận ra, sự
xuống cấp của các giá trị sống Thủ Đô cứ tiệm thoái dần theo những biến động xã
hội qua ba tiêu đề: HOÀI NIỆM THĂNG LONG, MUỐN QUÊN MỘT THUỞ và TRĂN TRỞ HÔM
NAY.
Ở
phần “Hoài niệm Thăng Long”, giống như thời kỳ trầm tích những giá trị căn bản,
tốt đẹp nhất bởi kỷ cương xã hội được thiết lập và duy trì trên tinh thần thượng
tôn pháp luật. Người Kinh Kỳ khi ấy, dù lả anh phu xe hay con sen cũng đều có
nhân cách tốt đẹp, có liêm sỉ và trọng danh dự. Các giai tầng xã hội luôn ứng xử
với nhau theo những chuẩn mực trên ra trên, dưới ra dưới, mỗi cá nhân đều biết
rõ vai trò và chức phận của mình nên xã hội không động loạn. Chính vì thế, khi
đọc truyện “Mẹ tôi” hay “Hai người đàn bà bán muối”, lòng ta chợt rưng rưng, rồi
trong tâm khảm tự nhiên mong ước bao giờ cho đến ngày xưa? Đương nhiên, một cộng
đồng dân cư, có tốt đẹp đến mấy cũng không thể loại bỏ hết những thành phần bất
hảo, nhưng ngay cả bà Phúc Toàn, một phụ nữ “rách giời rơi xuống” mà vẫn phải
chịu sự ràng buộc của luật tộc, phải nhiều năm sau mới dám lén lút về làng cho
dù bà ta là chủ hiệu thuốc bắc ở khu ba mươi sáu phố phường. Đọc đến “Một người
Hà Nội đi kháng chiến”, ông Y, toàn tâm toàn ý phục vụ chế độ mới, từng làm đến
trưởng ty kinh tế, vậy mà sau khi giải phóng Thủ Đô, bỗng nhiên thành kẻ vô gia
cư. Như một phản xạ tự nhiên, tôi nghĩ ngay đến nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn
Bô. Gia đình ông đã hiến mấy ngàn lượng vàng cho chính phủ kháng chiến. Khi đất
nước yên hàn, vợ ông, bà Hoàng Thị Minh Hồ muốn xin lại một trong nhưng ngôi đã
bị chiếm dụng, vậy mà sau mấy chục năm, những quan chức chính phủ có thẩm quyền
vẫn chỉ hứa suông, đến nỗi, một đêm, người con trai phải cõng mẹ “đột nhập” vào
ngôi biệt thự như là kẻ trộm...
Vẫn
phải nhắc lại “Hai người đàn bà bán muối”. Bà Ích Thái và chị Chanh tuy ở hai đẳng
cấp khác nhau, hoàn cảnh xã hội khác nhau nhưng đều có chung một triết lý sống
đẹp của phong hóa đất Kẻ Chợ. Người đàn bà chủ sạp vải nổi tiếng trong Nam
ngoài Bắc, sau chính sách cải tạo công thương mất sạch cơ nghiệp, chọn nghề bán
muối vào dịp áp tết để ngạo đời: “Ơ hay! Sao ông không ăn mà lại nhìn tôi mà
khóc? Còn gì là Tết! Ngày xuân... Giữa đời lạt tình tôi đi bán cái mặn mòi. Giữa
cái nhộn nhạo, tôi đi rao mời quả phúc. Vui quá đi chứ. Buồn cái nỗi gì”
(tr.62). Và đây nữa, một sự so sánh của người nữ doanh nhân khiến những ai đó
có lương tri phải mủi lòng: “Tôi đi bán cái mình dư dả cho người đang khao
khát, lãi lắm cả nhà ơi! Có mấy tiếng đồng hồ, thu lãi bằng nửa năm lương làm ở
tổ hợp tác, can cớ gì phải sĩ diện”... (tr.62)
“Muốn
quên một thuở” có thể xem là giai đoạn đệm, chuẩn bị cho một sự đổ vỡ trên quy
mô lớn bằng cuộc cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp và phong trào hợp
tác hóa đẩy đất nước vào cơn khủng hoảng trầm trọng. Có thể thấy rất rõ, cuộc cải
cách ruộng đất cũng như cải tạo công thương nghiệp là một cú đòn trời giáng vào
miền Bắc Việt Nam nói chung và không gian Hà Thành nói riêng làm cho mọi trật tự
xã hội bị đảo lộn, trong đó, những điền chủ lương thiện, những nhà doanh nghiệp
chân chính bị phá sản trở thành kẻ trắng tay, còn bọn lưu manh, vô học nghiễm
nhiên nên ông nọ bà kia. Vết thương chí mạng ấy hằn sâu vào ký ức cộng đồng,
kéo dài nhiều thế hệ, cho đến ngày nay có vẻ như vẫn còn rỉ máu.
Một
nhà triết học Hy Lạp cách đây hơn hai ngàn năm từng nói, chính phủ nào công dân
ấy. Hẳn là, không bao giờ một chính phủ loại ba mà lại có công dân thượng đẳng.
Cũng bởi những “biến động nhân gian” theo chiều hướng tiêu cực như vậy mới đẻ
ra tầng lớp “Bình cá gỗ”, “Bà Tuyết phe”, Tâm sứt hay Bôn Tây. Họ là sản phẩm của
xã hội, khi bị những chính sách trái quy luật áp đặt, không còn đường sống, bắt
buộc phải tìm cách “phá rào” theo phương châm “to be or not to be” mà Hamlet
trong vở bi lịch cùng tên của văn hào W. Shakespeare, để tồn tại.
Văn
hóa Tràng An một thuở đã bị thay thế bằng văn hóa công nông. Và một khi thứ văn
hóa nặng mùi đấu tranh giai cấp mà nội hàm của nó là chuyên chính vô sản và chủ
nghĩa lý lịch thì “thôi rồi, Lượm ơi!”.
Cho
nên, Việt Nam mới có một thời kỳ đói dài đói rạc, thậm chí phải ăn cả thứ lương
thực chỉ dành cho gia súc. Hạt bo bo là một trong số đó. Giờ nghĩ lại vẫn thấy
rùng mình. Và cũng chính ở vào cái giới hạn mong manh của “to be or not to be” ấy,
đã nảy sinh những bộ óc thông minh muốn cải tạo hoàn cảnh, khiến không ít người
thân bại danh liệt hay mắc vòng lao lý. Họ giỏi giang, không chấp nhận cảnh đói
nghèo, đi trước thời gian, tạo nên những chiều kích tác động không nhỏ vào nền
kinh tế kế hoạch hóa của hệ thống học thuyết không tưởng chỉ đưa con người đến
cảnh bần cùng. Bôn Tây, Ba Toác, Hải “Chichomex” là những trường hợp điển hình
trong số đó. Với Bôn Tây thì chỉ có nghề đi tù mới tìm thấy tự do, còn Ba Toác,
xuất hiện vào lúc tình trạng xã hội bế quan tỏa cảng đã tương đối cởi mở nên chớp
thời cơ làm giầu bằng xảo thuật “lách luật”. Và rồi sau 23 năm nhìn lại, chính
nhân vật nổi tiếng một thời đã khiến tác giả rút ra kết luận: “Có lẽ cần phải cảm
ơn Ba Toác bởi qua nó, tôi mới ngộ ra những nhân vật ngày ấy của mình chỉ dừng ở
mức tỷ phú tiền Việt. Họ giàu phất lên nhờ làm ăn theo kiểu móc ngoặc và lách
luật, nhưng so với lứa tỷ phú tiền đô bây giờ thì họ vẫn chỉ là thứ làm ăn cò
con, góp phần hình thành tầng lớp trung lưu mới ở Hà Nội giàu mà đa số mỏng học”
(“Cùng Ba Toác viết lại câu chuyện cũ”, tr.173). Tuy không nói thẳng ra, nhưng
bạn đọc ai cũng ngầm hiểu, cái gọi là móc ngoặc, lách luật ấy chính là những
doanh nghiệp núp bóng tư nhân nhưng thực ra lại là sân sau của những ông lớn có
chức có quyền nhiều khi khuynh đảo cả nền kinh tế đang ở giai đoạn tiền tư bản.
Và có lẽ, cũng chính một mô hình xã hội với cách điều hành bất thường so với phần
còn lại của thế giới như thế nên mới xuất hiện những hiện tượng như Mỹ Linh. Từ
con gái nhà lành, “trải qua một cuộc bể dâu”, nhờ ơn mưa móc của những “thằng
bán tơ” thế kỷ XX, nàng tiểu thư khuê các biến thành nữ tướng cướp xăm trổ đầy
mình, trả thù đời, một trong số đó là gã bảo vệ trường mù chữ sắp chết đói do
lòng thương người của cụ thân sinh cưu mang. Cho dù sau mấy chục năm, trở thành
nữ doanh gia tài năng, lại được thừa kế một gia sản lớn ở Pháp, Mỹ Linh vẫn
khao khát một tình yêu đích thực, muốn được người đàn ông xứng đáng là bậc nam
nhi vuốt ve âu yếm. Thế mới biết, cho dù bị một xã hội bất lương chà đạp, mất hết
niềm tin, nhưng trong nơi sâu thẳm tâm hồn một con người có gốc gác Thăng Long,
được hưởng thụ nền giáo dục tử tế của các bậc sinh thành, vẫn còn đủ lương tri
trở lại làm người.
Tuy
nhiên, “Hà Nội và tôi” không phải không có những con người tốt đẹp giữa lúc
nhân tình thế thái chao đảo. Chuyện ông giám thị trại tù, bằng tấm lòng nhân ái
đã cảm hóa được bao nhiêu phạm nhân trở thành người lương thiện cũng đáng để
cho ta phải suy nghĩ. Giá như, trên đời này có nhiều những cai tù giầu lòng vị
tha như thế thì xã hội bớt đi biết bao kẻ tội đồ. Ngày nay, cứ mỗi khi mở báo
ra đọc, là lại thấy tức mắt bởi những cái title “cướp, giết, hiếp” lan tràn
trên các tờ lá cải câu khách. Vì sao một xã hội được mệnh danh là tốt đẹp nhất,
đáng sống nhất mà lại lắm tệ nạn xã hội thế nhỉ?
Có
lẽ vì vậy, Vũ Ngọc Tiến mới đặt cho phần ba của cuốn sách “Trăn trở hôm nay”
chăng?
Bến
Tắm, đầu tháng cô hồn, năm Canh Tý
Đ.V.S.