Nhãn

Thứ Hai, 2 tháng 3, 2015

Ký ức làng Cùa




Ký ức làng Cùa

Tiểu thuyết của Đặng Văn Sinh

Chương bảy (Tiếp theo)

Sang đến làng Bòng, Khúc Luận vẫn không hiểu vì sao Lê Văn Vận tha mình. Hơn nữa, anh ta còn cử người thân tín đang đêm dẫn cậu bí mật sang sông. Còn nhớ, lúc đến bãi chuối xóm chài Cự Tân, nhìn cảnh đồng ruộng xác xơ, ba người vật vờ như những bóng ma dưới bầu trời mông lung, cậu ta bỗng khóc nấc lên bởi nỗi sợ hãi bị thủ tiêu:
- Các ông định mang tôi ra sông dìm chết phải không ?
Người đội viên An ninh có đôi mắt lác trông như mắt thuỷ tinh bực mình gắt:
- Cậu mà hét lên nữa là tôi cho mấy cái bạt tai.
Người thư ký trẻ hơn, có cái mũi vẹo, giọng khê nồng như người nghiện thuốc lào, mỗi khi bực mình anh ta hay văng tục:
- Mẹ kiếp, có câm mồm không thì bảo.
Người lái đò bị dựng dậy bất chợt, ngái ngủ càu nhàu:
- Có việc gì để đến sáng, giờ này đếch sang sông đâu.
Đó là một lão già tầm thước, không nhìn rõ mặt nhưng ước đoán cũng phải ngũ tuần. Lão nằm co ro trên chiếc ổ rơm trong căn lều tùm hum như lều chăn vịt thỉnh thoảng lại khậm khoạc ho. Gió đông nam bất chợt rồ lên. Lá chuối  đập phành phạch làm lũ chim đêm bay nháo nhác. Một đàn đom đóm chập chờn lúc gần lúc xa, phát ra thứ ánh sáng lạnh lẽo, xanh lét làm căn lều cứ nhập nhoà như âm cung.
- Dậy ! Ông lão. - Người có cái mũi vẹo quát khẽ. - Có công văn khẩn.
- Thượng khẩn cũng để đến sáng mai. - Lão lái đò xem ra không phải loại dễ dàng cho người khác sai bảo, ngáp liền mấy cái rồi lại tiếp tục ngáy.

- Có dậy không? - Vẫn người thư ký mũi vẹo vừa quát vừa lên đạn khẩu trường mas[1] làm lão lái đò hoảng hồn :
- Ấy! Đừng bắn! Tôi sang ngay đây.
Đêm đen thẫm. Trời ong ong. Những ngọn gió hiếm hoi lúc này không còn lang thang trên sông. Mặt nước lặng như tờ, thỉnh thoảng mới có gợn nhẹ không đủ cho sóng lao xao. Con thuyền lần mò trong đêm như một kẻ mù loà phải dùng gậy dò đường nhưng vẫn vào đúng bến chứng tỏ tài nghệ không thể phủ nhận của lão lái Quých. Bên này cũng là một bãi chuối. Dịch vào phía trong một chút là dẫy chuồng trâu bỏ hoang của Lái Lự. Người thư ký và anh đội viên An ninh có vẻ khá thông thạo đường đi lối lại. Ba người về phía đầm Vực, khoảng canh tư thì đến làng Bòng. Anh mũi vẹo gõ vào cánh cổng một ngôi nhà giữa xóm. Các loại chó hình như đợi đến đúng lúc ấy mới nhất loạt sủa lên bằng đủ thứ giọng tạo thành dàn hợp xướng khủng khiếp, dai dẳng, đinh tai nhức óc. Lái Lự mắt nhắm mắt mở ra cổng. Lão đã bị nhiều vố mất của, thậm chí xuýt bị toi mạng nên không vội rút then ngay mà khẽ hỏi:
- Ai đấy?
Người thư ký nói chõ vào:
- Ông Chủ tịch Nam Thành gửi bác cái thư.
- Chủ tịch nào? – Lái Lự cảnh giác hỏi lại.
- Ông Vận.
- Thư gì  mà phải đưa ban đêm? - Lái Lự quát khẽ. - Các người đừng có giở trò. Ta mà hô lên một tiếng, anh em tự vệ thôn đến thì có chạy đằng trời.
- Đất nước độc lập rồi làm gì còn trộm cướp mà ông lái cứ sợ bóng sợ vía. Người đội viên an ninh bảo. - Ông Chủ tịch muốn gửi thằng bé con cô Lánh. Mọi việc ông Vận đã nói rõ trong thư. Cậu ta đang chờ ngoài này. Chúng tôi đi đây.
Phải một lúc lâu sau Lái Lự mới dám mở cổng. Khúc Luận ngồi ngủ gật, tay vẫn cầm phong thư. Ông lái trâu vội đưa thằng bé vào nhà nhưng trong thâm tâm vẫn không dám chắc nó là cháu ngoại mình, bởi vì mười năm nay, từ khi con gái trốn khỏi làng, lão ngại không muốn đặt chân đến vùng Ba Tổng. Mọi sự liên hệ Lái Lự đều thông qua Khúc Kiệt hoặc vài người bà con ở kẻ Bòng. Cũng chính vì thời gian đứt đoạn quá lâu như thế, Khúc Luận gần như chẳng còn nhớ chút nào về ông ngoại. Thường ngày ông ta còn bị bà Cả Huê đơm đặt cho đủ điều xấu xa, nhằm nuôi dưỡng lòng căm ghét và thái độ khinh bỉ cho thằng cháu, đến nỗi khi nhìn thấy người đẻ ra mẹ mình, nó vẫn lạnh lùng, dửng dưng như từ trước đến nay chưa hề quen biết.
Đọc thư xong, Lái Lự mới hiểu sự tình. Ông bảo Khúc Luận:
- Cháu đã hiểu lầm anh Vận. Sự việc không đến nỗi ghê gớm như bà Cả vẫn nói. Bây giờ cứ ở đây với ông, mấy hôm nữa sẽ vào Lang Khê.
- Lại phải đi nữa? -  Thằng bé hỏi cộc lốc.
- Chỗ này không được an toàn. Ông sợ dân làng có người thóc mách.
- Còn mẹ cả tôi? Họ có xử bắn bà ấy không?
- Cậu cả đừng nói dại.
- Tôi nghe ông khoá Kiệt bảo thế.
- Ông ấy doạ cháu đấy.
- Vì sao ông Vận lại thả tôi khỏi nhà giam?
- Việt Minh họ không giết trẻ con. - Lái Lự buột miệng bảo.
- Khóa Kiệt cũng là Việt Minh, lại cùng họ nữa vậy mà ông ấy vẫn muốn xử bắn tôi.
Lái Lự gật đầu:
- Kể ra thì ông khoá cũng hơi cố chấp, nhưng hoàn cảnh gia đình ông ấy như thế nên cũng phải thông cảm.
- Ai bảo ông ta đem quân Áo đen về làng Cùa.
- Thôi, chuyện qua rồi, đừng nhắc lại nữa, sau này cháu sẽ hiểu.



                                                            2

                                                                                               
Khúc Văn đột nhiên về làng sau mấy năm biệt xứ. Anh ta không ở ngôi nhà tranh của gia đình họ Khúc mới được dựng lại mà đến tá túc trong chùa Từ Vân do sư Tuệ Văn trụ trì.
Chùa Từ Vân giống như một trang trại nằm giữa cánh đồng Vạn, từ xa chỉ thấy thấp thoáng những ngọn tháp rêu phong ẩn hiện giữa những lùm tre. Vì cách biệt hẳn với khu dân cư, lại được luỹ tre dày bao quanh nên quang cảnh ở đây lúc nào cũng thâm u, tĩnh mịch. Lúc hoàng hôn, khi sư thầy vào khoá lễ, chú tiểu leo lên gác tam quan gióng chuông. Tiếng chuông chậm rãi thả vào đồng quê yên tĩnh những âm thanh trầm trầm, buồn tẻ. Những ngày này, Khúc Kiệt đã lên hẳn trên huyện đảm nhiệm chức Trưởng công an kiêm trưởng ban an ninh. Chức Chủ tịch uỷ ban xã Đoàn Kết được giao cho Đỗ Kim là người tổng Cao Đôi. Anh này trước vốn là tay chân của trùm cướp Ba Ngạc, bị Tri huyện Cáp Văn Tòng tóm được tống vào trại La Tỉnh. Hồi tháng tám, Nhật đầu hàng Đồng Minh, Đỗ Kim cùng với một số chính trị phạm phá ngục thoát ra ngoài. Tay này có máu cờ bạc, ban ngày làm việc hàng tổng tối lại rủ cánh đàn em sát phạt nhau đến quá nửa đêm. Sáng ra, mắt anh nào cũng díp lại ngáp lấy ngáp để như con nghiện lúc lên cơn thèm thuốc. Làm Chủ tịch mới có nửa tháng, Đỗ Kim đã được kết nạp đảng. Sự kiện này rất có ý nghĩa đối với con đường thăng tiến của các cán bộ Việt Minh mới tham gia phong trào. Việt Minh lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền nhưng đảng cộng sản lại lãnh đạo Việt Minh. Thời kỳ này, ở vùng Ba Tổng,  ai không là người của tổ chức nếu tham gia hoạt động xã hội thì được gọi là nhân sĩ yêu nước nằm trong mặt trận Việt Minh nhưng thường chỉ là cơ cấu mang tính hình thức. Các đảng viên cộng sản mới là những người nắm thực quyền. Từ lâu, Khúc Kiệt có mối quan hệ khá thân thiết với Đỗ Kim. Mỗi lần từ huyện về ông ta lại ra đình Cả hoặc cưỡi ngựa sang Cao Đôi bàn công việc với Chủ tịch xã. Thực ra, Khúc Kiệt đề cử Đỗ Kim vào chức Chủ tịch không phải anh ta có tài cán gì mà cái chính là để trả ơn một lần cứu mạng. Dịp ấy, ông khoá bị mật thám theo dõi trong một lần giả làm người đóng cối đến nhà Cai Kíu ở Cao Thượng lấy tin tức. Cai Kíu từ lâu đã là cơ sở của huyện bộ Việt Minh. Cách đấy ít lâu Cai Kíu bị Nhật bắt đã khai ra tất cả những gì mà hắn biết. Bọn Nhật đón lõng tóm được hầu hết cán bộ chủ chốt của huyện tống vào cellule. Thấy ông thợ cối lảng vảng quanh mấy ngõ xóm, bọn cảnh binh và đám Trương tuần sinh nghi đuổi theo. Khoá Kiệt quẳng đồ nghề chạy bán sống bán chết. Vòng vèo qua vài ngõ, ông khoá nhìn thấy một ngôi nhà gạch liền đánh liều lách cổng vào. Hoá ra đấy là một đám xóc đĩa. Các con bạc đều là dân Ba Tổng, quen mặt nhau cả. Nhìn thấy Khúc Kiệt hớt hơ hớt hải, Đỗ Kim hỏi khẽ:
- Ông bị mật thám đuổi phải không?
Khoá Kiệt lấm lét nhìn trước nhìn sau chưa biết trả lời ra sao thì Đỗ Kim bảo tay chủ nhà đồng thời là chủ gá bạc:
- Phiền bác vào nhà lấy cho mượn bộ quần áo với chiếc khăn xếp.
Chủ nhà hiểu ý, kéo Khúc Kiệt vào buồng. Mấy phút sau, ông ta bước ra trong bộ trang phục mới, dáng dấp giống hệt một tay cờ bạc chuyên nghiệp. Bọn mật thám, cảnh binh ập vào khám xét không thấy kẻ lạ mặt măc quần nái đen áo cánh nâu chít khăn đầu rìu nên bỏ sang nhà khác. Mãi đến trưa hôm sau khoá Kiệt mới dám ra khỏi làng. Trước khi đi khoá Kiệt hết lời cảm ơn Đỗ Kim. Anh ta bảo:
- Ông làm việc vì dân vì nước, chúng tôi thật sự kính phục, chỉ mong rằng sau này đất nước độc lập, chính quyền mới để cho dân cờ bạc có chỗ làm ăn.
Nắm được chức Chủ tịch rồi, Đỗ Kim dần dần bộc lộ bản chất lưu manh của mình. Việc đầu tiên là anh ta nhờ bà đồng Chắt sang hỏi cô Mùi con gái ông Trương Thép. Ông này bị bất ngờ liền tìm cách hoãn binh. Sở dĩ Đỗ Kim phải đi hỏi vợ thiên hạ là vì dân Cao Đôi không muốn gả con gái mình cho một gã chuyên cờ bạc, ăn chơi bạt mạng và nợ nần chồng chất. Sau một tuần, thấy vợ chồng ông Trương Thép không tỏ thái độ gì, tay Chủ tịch liền sắm hai gánh lễ vật sang làng Cùa. Lần này, Trương Thép ra mặt từ chối, Đỗ Kim tức lắm, ra đến cổng, quẳng đồ sính lễ xuống ao, nhổ bọt thề độc:
 - Chuyến này mà không lột truồng được con Mùi ra ta quyết không làm giống người.
Ba hôm sau, một tối cô Mùi vừa ra đóng cổng thì bị mấy tên trùm mặt nạ đen, chỉ hở hai con mắt túm lấy, nhét giẻ vào mồm rồi cho vào bao tải vác đi. Chừng canh ba bọn chúng đến Cao Thượng. Khi lũ tay chân đi khỏi, Đỗ Kim lôi cô gái vào buồng lúc này vẫn còn đang ngất xỉu vì sợ.
Ông bà Trương Thép ra đình Cả trình báo với thường trực Uỷ ban Trần Quang Đắc và nhờ mấy anh cháu đi tìm kiếm khắp vùng Ba Tổng. Trần Quang Đắc vốn là học sinh trung học, Việt Minh cướp chính quyền, đang học lớp đệ ngũ, trường đóng cửa, bỏ về nhà nằm khàn đọc tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, được nửa tháng, buồn quá, nhận làm chân thư ký xã. Đắc chẳng ưa gì tay Chủ tịch  cũng như chính quyền mới, vì bọn họ gặp thời chứ thật ra đều là một lũ chân đất mắt toét và vô học. Nghe ông Trương vừa kể vừa sụt sịt vì cái sự con gái bỗng nhiên mất tích, Đắc bảo:
- Tôi nói khí không phải, có khi cô nàng đi theo trai rồi làm như thế để đánh lừa ông bà.
Bà vợ mếu máo:
- Từ trước đến nay nó là đứa nết na, biết nghe lời bố mẹ chả lẽ tự nhiên lại bỏ nhà đi.
- Chưa biết đâu mà nói chắc. - Vị uỷ viên thư ký khoát tay- Bây giờ nam nữ bình quyền, các bậc cha mẹ không bắt ne bắt nét con cái như thời đế quốc, phong kiến được đâu. Có thể ngày một ngày hai cô ấy về thôi.
Bà mẹ vẫn tức tưởi khóc:
- Đúng là con tôi bị bọn xấu bắt cóc chứ không phải nó theo trai. Thôi thì trăm sự nhờ chính quyền, mong các ông cứu cháu.
- Cách mạng mới thành công, chính quyền còn phải lo bao nhiêu chuyện quốc kế dân sinh, việc của gia đình ông bà chỉ là việc nhỏ, nhưng thôi được, ông bà cứ về đi, chốc nữa tôi sẽ xuống Cao Đôi báo cáo ông Chủ tịch.
 Nghe tin con gái ông Trương Thép bị bắt cóc, Khúc Văn liền cử một số anh em thân tín bí mật điều tra. Chùa Từ Vân là nơi khá yên tĩnh, ngay cả thời Nhật chiếm đóng chúng cũng không dám vào quấy nhiễu. Chính quyền mới bước đầu tỏ ra tôn trọng tự do tín ngưỡng nên tổ chức Hội dân cày của anh ta hoạt động khá thuận lợi. Sau mấy năm lang thang khắp các xứ đông đoài, học được khá nhiều điều, anh ta đã có thời kỳ nghiên cứu chủ nghĩa Marx và xuýt gia nhập đảng cộng sản. Tuy nhiên, qua mắt thấy tai nghe và nhất là những dịp tiếp xúc với các nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, chàng trai trẻ đã ngộ ra một điều chủ nghĩa cộng sản chỉ là một thứ ảo tưởng. ở một nước thuần tuý nông nghiệp, đói nghèo và lạc hậu vào bậc nhất thế giới này, không thể có cái gọi là giai cấp vô sản đúng như ông Karl Marx và ông Lenin định danh trong học thuyết của họ. Muốn đất nước thoát khỏi tình cảnh trì trệ hiện nay, trước hết phải làm cuộc cách mạng nông dân, phải có một tổ chức thực sự của nông dân. ý tưởng ấy cứ nung nấu trong lòng làm Khúc Văn quyết chí thuyết phục bạn bè thành lập Trung ương Hội dân cày để phát động hơn hai chục triệu bần cố nông đứng lên đấu tranh giành độc lập, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời cải thiện bộ mặt xã hội đang ốm yếu cả về thể xác lẫn tinh thần từ hàng trăm năm nay. Trong nhận thức của mình, Khúc Văn luôn xem toàn bộ sự nghiệp cách mạng mà Việt Minh đã làm chỉ là sự ăn may cho dù trước mắt họ đã giành được chính quyền. Thực chất, lực lượng của đảng cộng sản lúc ấy rất mỏng, nhưng họ khôn ngoan chớp lấy thời cơ quân đội Nhật Hoàng thua trận trước khi các đảng phái chính trị khác kịp ra tay.
Những thành viên trong Hội dân cày cứ một tháng vài lần tập trung về chùa Từ Vân học “Nghị quyết” và võ thuật. Không biết Khúc Văn tuyên truyền thế nào mà cả sư thầy trụ trì và mấy chú tiểu đều gia nhập tổ chức này. Trong cuộc họp Ban cán sự, một uỷ viên người tổng Cao Đôi nêu ra hiện tượng đáng chú ý. Nhà Chủ tịch xã thời gian gần đây, cứ tầm chiều tối lại xuất hiện những kẻ lạ mặt hành tung có vẻ mờ ám.
Khúc Văn nhận định:
- Tay này vốn dĩ là dân xóc đĩa thành thần, có thể hắn lợi dụng cái ghế Chủ tịch để mở sòng bạc.
- Liệu bọn này có liên quan đến việc con gái ông Trương Thép mất tích?
- Tôn chỉ, mục đích của chúng ta tuy không giống với Việt Minh nhưng đây rõ ràng là hành vi phạm pháp. Tôi nghĩ, cần phải báo ngay cho Chủ tịch Lê Văn Vận hoặc trưởng ban An ninh huyện để họ xử lý.
Khúc Văn xua tay:
-Thế là các chiến hữu chưa hiểu gì về ông bố tôi. Ông ấy với Đỗ Kim trước đây đã từng đi lại với nhau...
 Hoàng Thị Tịnh, cháu gái Lý trưởng Đậu Khê đã mấy lần bị Đỗ Kim cợt nhả, đưa ra ý kiến:
- Tôi đồ rằng, có thể chính Đỗ Kim đã cho người bắt cô Mùi. Các anh cứ thử kết nối các sự kiện lại mà xem. Từ lúc tay Kim sang dạm hỏi đến khi cô ta mất tích là mấy ngày? Tại sao lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế?
- Không có lẽ ... -  Khúc Văn lẩm bẩm rồi hỏi - Gia cảnh Đỗ Kim hiện nay thế nào?
Phạm Cửu, người tổng An Điền báo cáo:
- Bố mẹ Đỗ Kim đã chết. Mấy năm trước, hắn là một tay cờ bạc khét tiếng, đã từng kết bè đảng với bọn anh chị trên phố Phủ, sau dính vào đảng cướp, bị án bảy năm. Hắn trốn ra được là nhờ cánh chính trị phạm tổ chức vượt ngục. Từ khi làm Chủ tịch đến giờ nhà Đỗ Kim luôn kín cổng cao tường, bên ngoài lúc nào cũng có đàn em canh gác.
- Theo tôi, việc này cứ để các ngài Việt Minh giải quyết. - Hoàng Thị Tịnh bảo - Tội gì ta nhúng tay vào, chẳng may thất lợi họ lại quy kết là phản cách mạng.
Khúc Văn lắc đầu bảo:
 - Cô Tịnh nói sai rồi. Hội của ta làm việc là vì dân chứ đâu phải vì chính quyền Việt Minh. Nên nhớ rằng, hiện nay họ đang lúng túng trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc. Ta phải tranh thủ cơ hội khẳng định uy tín của mình bằng hành động cụ thể.
-  Anh Khúc Văn nói có lý. - Phạm Cửu gật đầu tán thành - Ngay đêm nay tôi cùng một số anh em  về Cao Đôi tiếp tục thăm dò, sự việc thế nào sẽ báo cáo Ban cán sự.
Khúc Văn dặn:
- Tôi nhắc lại, việc này phải rất thận trọng, không được hở ra với ai kể cả người thân trong gia đình.
Trưa hôm sau, Phạm Cửu trong vai người quăng chài đến chùa Từ Vân thông báo một tin quan trọng. Không phải chỉ một cô Mùi mà trong thời gian qua, vùng Ba Tổng có đến ba cô gái bị mất tích. Mấy hôm trước, dân vạn chài nhìn thấy một xác chết nổi lập lờ ở đoạn bến Trại sông Lăng. Sau khi tử thi được vớt lên, phải khó lắm người ta mới nhận ra đấy là Lê Thị Vượng con bà Bẩy Cừ ở Ngân Đôi. Cô gái bị trói hai tay, nhét giẻ vào miệng, trên người không một mảnh vải.
- Hừ! Bọn này không còn là giống người nữa. - Khúc Văn nghiến răng bảo - Bên công an huyện đã cử người về điều tra chưa?
- Báo cáo! Ông khoá có dẫn hai đội viên đến khám nghiệm xác chết qua loa rồi cho chôn cất sau đó kéo nhau sang nhà Đỗ Kim uống rượu đến chiều mới về.
Khúc Văn cười gằn:
- Ông bố chuyên chính vô sản  của tôi bị tay trùm xóc đĩa lừa rồi. Thôi được, tối mai anh cùng anh Chương, anh Khả và anh Tuyến đi với tôi.
Đầu canh hai hôm sau, Khúc Văn gặp bốn hội viên ở miếu Cây Si. Người nào cũng giắt súng ngắn hoặc dao găm trong bụng, dáng dấp như những tay cờ bạc chuyên nghiệp, đi tắt lối  Mạc  Xá sang Cao  Đôi. Nhà Đỗ  Kim  ở cuối xóm, vị trí khá hẻo lánh rất thuận lợi cho cánh đệ tử của thần đổ bác[2] hành nghề. Phía trước là dãy tường cao ngang đầu trên cắm mảnh chai, phía sau tiếp giáp với ao sâu, bờ ao trồng tre gai dày, rậm rạp như một bức luỹ tự nhiên. Lại Văn Chương và Lê Khả lảng vảng quan sát vòng ngoài. Khúc Văn, Phạm Cửu cùng Lương Văn Tuyến thản nhiên đẩy cổng vào, phong cách giống hệt dân đỏ đen. Một bàn tay cứng như sắt bất chợt chộp lấy vai Phạm Cửu quát khẽ:
- Đi đâu?
- Đi khai hội. - Phạm Cửu nói đúng mật khẩu của đám xóc đĩa. - Người anh em quên tớ rồi à?
- Đừng có cợt nhả! - Tay gác cổng vốn là thuộc hạ thân tín của Đỗ Kim hỏi dồn. - Còn những người này?
- Anh em nhà vệ Khòa bên Cao Xá, đều là dân chịu chơi đấy.              
- Vậy à? - Tên vệ sĩ đảo cặp mắt nhìn Khúc Văn và Lương Văn Tuyến. - có đủ ngân không ?
Khúc Văn vỗ vỗ vào bụng, nơi giấu khẩu súng ngắn bị phồng cộm lên, nheo mắt cười nhạt:
- Bọn này từ trước nay chưa ăn quỵt của ai bao giờ.
- Vào đi, nhớ cửa bên trái.
Dưới ánh đèn toạ đăng có chiếc thông phong rất dài, sáu bẩy tay cờ bạc đang sát phạt nhau. Đỗ Kim cầm cái, Thấy bọn Phạm Cửu chỉ khẽ gật đầu rồi hất hàm ra ý ngồi sang chiếu bên cạnh chờ. Trong buồng có tiếng động lạch cạch. Khúc Văn áp tai nghe nhưng không thấy gì khả nghi, có lẽ là chuột chạy. Dù sao cũng đã đến lúc phải hành động. Cả ba người nhất loạt rút súng ngắn ra quát:
- Nhân danh chính quyền cách mạng, chúng tôi bắt các anh vì tội đánh bạc.
- Cái gì? - Đỗ Kim giật nảy người quay ngoắt lại. - Các anh là ai mà dám ...?
- Đội An ninh của huyện. - Khúc Văn chĩa nòng khẩu Cotl đã lên đạn vào gáy tay Chủ tịch. - tất cả nằm úp mặt xuống chiếu. Kẻ nào chống lại là ăn đạn.
 Phạm Cửu, Lê Tuyến rút cuộn dây gai trói quặt cánh tay từng tên một rồi lột chiếc áo của một tên trong bọn xé ra nhét vào mồm chúng. Phía bên ngoài, Lại Văn Chương, Lê Khả nghe ám hiệu, biết là công việc đã xong liền xuống tay hạ gục tên gác cổng. Phải mất một lúc họ mới phá được chiếc khoá đồng to quá khổ vốn là thứ chỉ dùng để khoá cổng làng. Trong buồng không có gì ngoài chiếc giường gỗ lim cũ và mấy thứ đồ dùng lặt vặt không đáng giá.
- Chẳng lẽ mình đoán nhầm đối tượng? - Khúc Văn thầm nghĩ. - Tội cờ bạc cùng lắm chỉ bị cách chức, phạt giam mấy ngày là cùng, vậy phải báo anh em rút ngay trước khi bọn chúng phát hiện ra.
Nghĩ vậy nhưng Khúc Văn vẫn cảm thấy trong gian buồng này có điều gì khác thường. Đó là loại mùi rất đặc trưng của đàn bà. Nó kia. Một chiếc áo cánh gụ được vắt trên con sào nứa. Như chợt nhớ ra, anh ta ghé tai Phạm Cửu thì thầm:
- Cậu tìm dưới gầm giường xem có gì không?
Phạm Cửu chui vào một lúc lại thò đầu ra bảo:
- Hình như bên dưới có hầm.
Chiếc giường lập tức được chuyển sang một bên để lộ ra một nắp hầm kích cỡ khoảng năm mươi phân. Khúc Văn nhìn thấy cây đèn chai treo góc buồng liền châm lửa đưa cho Lương Văn Tuyến:
- Khi nào tôi xuống đến nơi cậu phải thả đèn để soi.
Vừa chạm đáy hầm anh ta đã đụng phải một vật mềm mềm như da thịt người. Đúng là một phụ nữ. Cô ta chỉ mặc mỗi chiếc váy thâm, nửa trên bị lột trần, mái tóc sõng sượt che gần hết khuôn mặt hốc hác.
- Cô là con gái ông Trương Thép phải không?
Nạn nhân ú ớ chắc là sợ quá không nói được nên lời. Khúc Văn hỏi lại:
- Cô là Mùi ở làng Cùa phải không?
- Mùi ... đây, các bác cứu em ...
Đến quá nửa đêm, khi dân trong xóm đã hoàn toàn yên giấc Khúc Văn mới cho anh em ra khỏi Cao Thượng. Phạm Cửu là chàng trai có dáng dấp như võ sĩ đấm bốc, cõng cô Mùi. Khúc Văn đi giữa giong Đỗ Kim. Lương Văn Tuyến và Lại Văn Chương cảnh giới phía sau. Chừng nửa giờ cả bọn đến bãi chuối xóm chài Cự Tân. Khúc Văn kéo Đỗ Kim đến gò đất cao, trước vốn là chỗ cắm lều của lão lái Quých, nhưng sau cái đêm bị mấy ông An ninh lôi dậy, gí súng vào tai, bắt phải chở đò sang sông thì hốt quá liền đốt lều, bỏ nghề, chuyển sang đánh giậm kiếm ăn. Đỗ Kim sợ hết hồn nhưng miệng bị tống giẻ nên chỉ ú ớ  không nói được. Phạm Cửu lấy ra con dao găm và mảnh giấy đã viết sẵn mấy chữ đưa cho Lê Khả. Khúc Văn kéo ông Chủ tịch lại gần ghé tai nói dằn từng tiếng :
- Nhân danh công lý, chúng ta xử tử ngươi vì tội bắt cóc, cưỡng hiếp con gái nhà lành.
Khúc Văn vừa tuyên án xong thì Lê Khả thọc ngay mũi dao nhọn vào yết hầu Đỗ Kim. Trong bóng đêm chỉ nghe thấy tay Chủ tịch ặc ặc ở cổ họng như nồi cơm sôi sắp cạn nước, co giật liền mấy cái rồi đờ ra. Trên trời cao những ngôi sao xanh đang nhấp nháy. Dòng sông vẫn chảy và gió từ trên triền đê vẫn rì rào thổi qua hàng tre chắn sóng.
Nghe tin Chủ tịch xã Đoàn Kết bị ám sát, trưởng ban An ninh huyện vội đem người về Cao Thượng truy tìm thủ phạm. Người đầu tiên bị lôi ra đình thẩm vấn là con gái ông Trương Thép.
- Cô có nhận mặt được những kẻ đã đột nhập vào nhà Chủ tịch Kim không?
- Trời tối, lại tắt hết đèn đóm nên cháu không nhìn thấy mặt họ.
- Có đúng Đỗ Kim đã cho người bắt cô hay là có kẻ nào xui vu khống nhà chức trách? - Khúc Kiệt gằn giọng răn đe.
- Chính hắn đã bắt cháu hôm mười bẩy tháng một. Hắn và bọn cờ bạc thay nhau hãm hiếp rồi quẳng cháu xuống hầm. Tội của hắn chết là đáng đời. - Mùi chợt khóc nức lên  - Cái hầm có nắp đậy vẫn còn ở trong buồng nhà hắn, các ông đến đấy mà khám.
- Khi bọn người lạ mặt giết Đỗ Kim chúng nói những gì?
- Họ bảo nhân danh công lý.
- Quái nhỉ, vậy thì chúng thuộc cánh nào? Việt Quốc hay Việt Cách? - Khúc Kiệt lẩm bẩm.- Chúng làm vố này là muốn bỉ mặt mình đây.
Chiều hôm sau Khúc Kiệt về huyện, Lê Văn Vận đưa cho ông ta mấy lá đơn của dân Cao Xá, Mạc Điền và Đậu Khê yêu cầu tìm ra thủ phạm bắt cóc con gái họ. Khúc Kiệt lo lắm. Chính ông ta đề cử Đỗ Kim vào chức Chủ tịch, giờ xảy ra vụ bê bối lớn thế này biết tính làm sao?
- Đây là vụ án nghiêm trọng mà thủ phạm chính lại là một tên lưu manh được chú đứng ra bảo lãnh. Qua việc này có thể thấy, lực lượng công an của chú không thể đảm bảo được trật tự an ninh xã hội. Nguy hiểm hơn nữa là trên địa bàn huyện ta, ngoài Mặt trận Việt Minh ra còn có những tổ chức phản động khác đang hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau mà mục đích chính của chúng là quấy rối chính quyền cách mạng, tranh giành ảnh hưởng với ta. Phải công nhận bọn này là những tay có bản lĩnh làm được những việc mà nhân viên công an của chú bó tay. Tôi yêu cầu phải tiếp tục thẩm vấn bọn cờ bạc ở nhà Đỗ Kim để làm rõ hành vi phạm pháp của hắn trong mấy tháng qua, nếu cần, cứ nện thật mạnh vào.
- Có nên đưa ra xử bắn một thằng để răn đe bọn cờ bạc, trộm cướp và lũ lưu manh trong huyện không?
- Nên quá đi chứ, nhưng không phải một mà là tất cả những tên đã tham gia cưỡng hiếp cô Mùi. Còn nữa, trong vòng một tháng chú phải bắt cho bằng được những kẻ giết Đỗ Kim. Nếu thất bại chú nên tự làm đơn rút khỏi ngành Công an trước khi có quyết định cách chức.
Sau buổi làm việc khá căng thẳng với Chủ tịch huyện, Khúc Kiệt quyết định về làng Cùa, phân phát người của mình đi khắp nơi trong huyện nắm tình hình.Và cũng đến lúc này ông ta mới biết Khúc Văn đang ở chùa Từ Vân. Các mũi trinh sát đều không có kết quả, riêng nhóm ở làng Cùa cho biết, mấy tháng nay, chùa Từ Vân có một nhóm thanh niên thường xuyên đến tập võ. Thấy sự việc có vẻ khác thường Khúc Kiệt liền cho người đến bắt sư trụ trì về đình Cả. Nhà sư là người hiền lành, mộ đạo, hơi bị nặng tai, nghe câu được câu chăng, trả lời ấm ớ bị đánh một trận thừa sống thiếu chết. Khúc Văn tức lắm, nửa đêm cùng Lại Văn Chương, Lê Khả đột nhập vào đình, nện gẫy xương sườn tay gác cửa, cứu sư  Tuệ Văn đưa sang bên kia sông Lăng.
Ngày hôm sau Khúc Kiệt cho các đội viên An ninh bao vây chùa. Khúc Văn bàn với các bạn:
- Chúng ta có đủ đạn để cầm cự đến tối, nếu thấy đứa nào vượt tường vào thì cứ nổ súng, nhớ phải nhắm cho chính xác.
Phạm Cửu băn khoăn:
- Tôi sợ ông khoá kéo thêm người đến thì nguy mất, hay là chúng ta ra hàng?
- Cậu là thằng nhát gan. - Khúc Văn cười nhạt - Nghe nói quân đội Pháp đã đánh đến Ba Hàng và  An Lĩnh. Chính quyền Việt Minh sắp đi đời rồi. Nhân đà này ta phải chiếm lấy vùng Ba Tổng làm căn cứ.
Lương Văn Tuyến ngập ngừng:
- Nếu ông khoá đích thân xông vào thì có bắn không?
Khúc văn phẩy tay:
- Tôi đã nói rồi, không có bất cứ ngoại lệ nào.
Khúc Văn vừa nói xong thì thoáng thấy hai bóng đen thập thò ngoài bờ rào cạnh cây mít mật liền nổ một phát mousqueton. Phía cổng chính, Khúc kiệt chõ miệng loa sắt tây vào chùa cất giọng khàn khàn:
- Anh em đừng nghe luận điệu lừa phỉnh của thằng Khúc Văn, hãy ra đầu hàng, chính quyền cách mạng sẽ mở lượng khoan hồng.
Tiếng loa ậm oẹ nhắc đi nhắc lại mấy lần nghe rất chối tai. Lê Khả bảo Khúc Văn:
- Bắn cảnh cáo nhé.
- Bắn đi.
Lê Khả vốn là tay thiện xạ. Anh ta kê nòng súng lên chạc cây dâu da nhằm khoá Kiệt nổ một phát. Viên đạn xuyên thủng chiếc loa làm ông Trưởng công an hết hồn. Trong vòng mấy giờ đồng hồ, quân của Khúc Kiệt không đột nhập được vì hoả lực khá mạnh từ trong bắn ra. Vũ khí của đội An ninh toàn súng Joffre với mousqueton. Có mỗi khẩu tiểu liên Nhật thì lại hóc, sau một hồi tháo ra lắp vào bị gãy kim hoả, Khúc Kiệt cáu tiết chửi:
- Mẹ kiếp, súng với ống chết tiệt. Bây giờ anh nào bắt sống được thằng Khúc Văn ta thưởng hẳn ba mươi đồng.
Quá năm giờ chiều, thế trận vẫn bất phân thắng bại. Tháng mười,  gió bấc chạy ào ào. Trời u ám. Thoáng một cái đêm đã ập xuống. Lúc này Khúc Kiệt đã có thêm mấy  tự vệ tăng viện cùng khẩu tiểu liên cóc gặm chẳng biết do nước nào sản xuất, cứ bắn đỏ nòng là đạn rơi ngay trước mặt. Lợi dụng màn đêm, từng nhóm vài ba người một, luồn hàng rào tre, nhảy qua tường tiếp cận mục tiêu. Thấy hoả lực của đối phương thưa thớt dần, ông Trưởng công an cho rằng cánh phản loạn đã hết đạn liền phá cổng chính xả súng vào những chỗ nghi có quân bắn tỉa. Đạn lửa bay loằng ngoằng. Lửa bén từ dẫy nhà Tổ sang mái Tam quan bốc lên cao kèm theo những tiếng nổ lốp bốp như pháo đùng. Tàn lửa đỏ rực được những trận gió mùa ràn rạt đẩy ra cánh đồng lúa đang kỳ thu hoạch. Vô vàn là lưỡi lửa với đủ hình thù kỳ dị liếm lem lém vào bất cứ thứ gì nơi nó đi qua. Cả một cánh đồng vàng óng mênh mông những lúa là lúa bỗng chốc biến thành biển lửa. Trong làng, dân chúng nháo nhào xách thùng, chậu, gầu tát nước rầm rập chạy ra đồng nhưng đành bất lực trước đám cháy lan nhanh với tốc độ khủng khiếp. Đồng điền vào ngày đông giá tất cả đều khô nỏ. Không một đám ruộng nào còn sót lại khi hoả thần chạy qua. Bà Cả Huê xót của, nghiến răng nghiến lợi gọi bố con Khúc Kiệt là quân trời đánh thánh vật. Thường Rỗ khóc hu hu còn Lý Quỳnh mặt nặng chình chịch bảo Phó lý Kiền:
- Còn chữa chạy gì nữa, chuyến này thì cả làng xách bị đi ăn mày.







[1] mas36 : Một loại súng trường của Pháp sản xuất năm 1936
[2] Đổ bác : cờ bạc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét