Nhãn

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

Tiểu thuyết lịch sửvà thông điệp của nhà văn

Tiểu thuyết lịch sử và thông điệp của nhà văn

Hoàng Minh Tường
1. Nhà văn không thay thế được sử gia, nhưng có thể bù lấp những khoảng trống của lịch sử.
Lịch sử và Văn học hiển nhiên là hai lĩnh vực khác nhau. Thời trước, sử thần, sử quan, sử gia là người của thể chế, của triều đại, chuyên chép việc của vua quan, của việc cai trị. Có một nguyên tắc: Sử quan chỉ trung thành với sự thật. Nhưng hiếm ai làm nổi như  anh em nhà Thái Sử Bá nước Tề:
 ( Thôi Trữ chuyên quyền, giết cả vua, bắt sử công phải chép theo ý mình. Bá chép vào thẻ: Ngày Ất Hợi, tháng Năm, mùa Hạ, Thôi Trữ giết vua là Quang”. Chữ chém Bá, các em Bá là Trọng, Thúc, chép như anh, cũng bị chém. Quý là người em cuối cùng vẫn chép không thay đổi, bởi “chép đúng sự thật là chức phận của người làm sử, nếu trái chức phận mà sống, thì chẳng thà chết còn hơn”)
Các sử quan thời sau, càng hiếm người giữ trọn được thiên chức của mình như anh em nhà Thái Sử Bá. Bởi vậy hậu thế nước Việt đến giờ còn tranh cãi khi so sánh giữa chính sử và truyền thuyết dân gian về sự nhường ngôi của Dương Vân Nga cho Lê Hoàn, về vụ án Lệ Chi viên oan khiên thấu trời xanh…và hàng trăm sự kiện, nhân vật lịch sử khác. Có những khoảng trống, khoảng tối, khoảng mờ trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc là điều có thật.

Các nhà chép sử thời cận đại và hiện đại, còn ít có khả năng thực hiện sứ mạng của mình hơn nữa, vì bộ máy công quyền không cho phép họ nói khác với thể chế, nhất là các thể chế độc tài toàn trị. Hítle có cả một bộ máy khổng lồ tuyên truyền cho Chủ nghĩa Đức Quốc xã. Pinoche ở Tân lục địa cũng không kém cạnh gì. Và cha con Kimsungin - Kimsungun đã biến Bắc Triều Tiên thành cái hộp đen bí hiểm, đố thế giới nhìn thấy điều gì ở bên trong? Ở những thể chế này, câu nói của triết gia Ailen George Berkeley (1685-1753): “ Chân lý là tiếng kêu của mọi người, nhưng là trò chơi của một nhúm người” (Truth is the cry off all but the game of the few), đúng vậy thay.
Nhưng dẫu các nhà viết sử đúng hết, thì vẫn cần đến các nhà văn viết về đề tài lịch sử. Bởi văn học không chép lại lịch sử, mô phỏng lịch sử, mà nhà văn, bằng thiên tư của mình chiếu rọi vào lịch sử cái nhìn nhân văn làm cho lịch sử được tái tạo lại với một tầm vóc vũ trụ như nó vốn có.
Nhà văn có khả năng bù đắp một cách kỳ diệu những khoảng trống, những phần khuất lấp mà các sử gia còn sợ hãi, còn né tránh hoặc bỏ ngỏ. Có rất nhiều dẫn chứng về các nhà tiểu thuyết lịch sử vĩ đại Đông Tây như Shekespeare, Dickens, Walter Scott,  H. Balzac, Thackeray, Victor Huygo, Lev Tolstoy, Aleksey Tolstoi, Solokhov, Sienkievich, La Quán Trung, Tào Tuyết Cần,  Jack London, Margaret Mitchell,… Và ở Việt Nam ta là Nguyễn Khoa Chiêm, Ngô gia Văn phái, Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Huy Tưởng, Chu Thiên, Hoàng Yến, Hà Ân, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Quang Thân vv… Nếu không có Sienskievich, nhân loại làm sao hình dung được một Nero bạo chúa? Nếu không có Aleksey Tolstoy, chân dung Pie Đại đế, vị vua nước Nga không thể Người và sống động như chính con người vĩ đại mà tàn nhẫn ấy.
Với văn học Việt Nam, tôi nghĩ rằng, trước cả tiểu thuyết “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia Văn phái gần trăm năm, tiểu thuyết “Nam triều công nghiệp diễn chí” hay là “Việt Nam khai quốc chí truyện” của Bảng trung Nguyễn Khoa Chiêm đáng được coi là cuốn tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu tiên đồ sộ và bao chứa nhiều sự kiện, nhiều chân dung nhân vật lịch sử trong khoảng thế kỷ XVI, XVII. Với hơn 600 trang, chia thành các chương hồi, cuốn tiểu thuyết đã tái hiện lại cuộc đi mở cõi phương Nam của chúa Tiên Nguyễn Hoàng và vùng đất quyết chiến chiến lược, cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh, mà hơn hai trăm năm sau, trớ trêu thay, lịch sử lại chọn lựa làm chiến tuyến khốc liệt…

2. Tiểu thuyết lịch sử không thể là hư cấu lịch sử.
 G.Market có cực đoan quá không khi ông viết: “Một người viết tiểu thuyết có thể làm bất cứ gì anh ta muốn, miễn sao khiến độc giả tin là được”? Có lẽ G.Markets đang nói về tiểu thuyết hư cấu và tiểu thuyết viễn tưởng. Câu này ông không dành cho các nhà văn, các kịch tác gia viết về đề tài lịch sử. Nhà văn viết về lịch sử có quyền hư cấu, tưởng tượng, thậm chí sáng tạo thêm các nhân vật, sự kiện (như trường hợp nhân vật Sử Văn Hoa của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh trong tiểu thuyết “ Hồ Quý Ly”) để làm sáng tỏ lịch sử, soi rọi lịch sử, nhưng không thể bóp méo hay bịa tạc lịch sử một cách phi logic, theo ngẫu hứng của riêng mình. G. Market lại viết trong “Mùa thu của vị trưởng lão”: “Một tên độc tài đã nói: “Sự bịa đặt của ngày hôm nay, đến một lúc nào đó sẽ là sự thật trong tương lai”. Sẽ thật là nguy hiểm nếu xuyên tạc lịch sử, thêm bớt lịch sử, bóp méo lịch sử.
Nhân đây xin nói một câu chuyện ngoại đề, nhưng các nhà sử học và các tiểu thuyết gia lịch sử không thể bỏ qua. Đó là câu nói của Bác Hồ, mà hiện nay đang được dùng làm tiêu lệnh cho buổi phát thanh Quân đội Nhân dân, buổi phát hình QĐND trên Đài và Tivi: “ Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.” Tư liệu lịch sử của trường võ bị Trần Quốc Tuấn, sau là trường Sĩ quan lục quân 1 và nay là trường Đại học Trần Quốc Tuấn, viết rằng: Chủ nhật, ngày 26-5-1946, là ngày lễ khai giảng khóa 1 của trường. Hồ Chủ tịch và Chủ tịch Quân ủy hội Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng Phan Anh đến từ rất sớm. Tại lễ khai giảng, Bác Hồ đã tặng lá cờ thêu những chữ vàng: “TẶNG TRƯỜNG VÕ BỊ TRẦN QUỐC TUẤN- “ TRUNG VỚI NƯƠC, HIẾU VỚI DÂN- 1946”. Học viên Bùi Minh Tuấn, một chiến sỹ của Nam Bộ, thay mặt 288 học viên khóa 1 đã đón nhận lá cờ trước sự chứng kiến của Hiệu trưởng Hoàng Đạo Thúy, chính trị ủy viên Trần Tử Bình và các giáo viên, quan khách. Sau đó, Bác Hồ nói với thầy trò: “Trung với Nước, hiếu với Dân là bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là vinh dự của người chiến sỹ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta.”
Nước, Đất nước, Tổ quốc Việt Nam và Dân Việt, là phạm trù vĩnh cửu. Vậy ai là người đã sửa lời Bác? Tại sao chúng ta không thực hiện lời dạy của Bác? Đã đến lúc chúng ta phải trả lại cho Lịch sử bản gốc chứ không phải bản sao, bản chế tác, dù có tinh xảo, tinh vi đến đâu chăng nữa... Và, phẩm chất cần có của nhà tiểu thuyết lịch sử là phải trung thực với lịch sử, trung thực với chính mình. Nhà văn càng tài năng thì độ trung thực càng phải cao. Đó là bản lĩnh và lương tri của người viết.
Với tiểu thuyết hư cấu, tiểu thuyết viễn tưởng, nhà văn “có thể làm bất cứ gì anh ta muốn”, và đương nhiên người đọc dù khó tính bao nhiêu vẫn tin và cảm phục khi G. Macrket viết về người đàn bà đã sinh ra một đứa con có đuôi lợn, đứa con cuối cùng của dòng họ Buendia, trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”, người đọc cũng rất hứng thú và hồi hộp theo dõi những trang viết của Nukarami khi ông mô tả về tầng lớp sinh viên Nhật Bản những năm 1960, về cô gái có màng trinh dày đến mức nhiều người đàn ông không phá thủng nổi, cho đến khi bị phá thủng, thì lập tức cô trở thành một người khác và phải đi nằm viện…Thế nhưng khi đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp viết về vua Quang Trung và mùi hoa sữa, khi đọc tiểu thuyết “Hội thề” Nguyễn Quang Thân viết về mối quan hệ giữa Thái Phúc và Ức Trai Nguyễn Trãi, thì hàng nghìn độc giả nhảy thách lên, đầy phẫn nộ…
 Người phẫn nộ và phản đối quyết liệt ‘Hội thề” nhất là nhà văn vừa quá cố Trần Hoài Dương. Đúng giờ ngọ mồng Một tết năm Tân Mão, 2011, tôi nhận được điện thoại của Trần Hoài Dương và ông nói xa xả gần tiếng đồng hồ. Ông trách tôi ở trong Ban sáng tác Hội nhà văn, trong ban sơ khảo cuộc thi tiểu thuyết 2008 -2011, mà sao lại trao giải nhất cho tiểu thuyết “ Hội thề” của Nguyễn Quang Thân. Ông nói đây là một tác phẩm xuyên tạc lịch sử, có tội với Ức Trai tiên sinh, hạ thấp nhân cách nhà văn hóa lớn Nguyễn Trãi...
Đọc kỹ lại “Hội thề”, tôi giật mình, thừa nhận Trần Hoài Dương có con mắt xanh của một nhà biên tập nghiêm cẩn, nhận ra sự lệch hướng của thi pháp tiểu thuyết trong “Hội thề”. Sai lầm của “Hội thề” bắt đầu từ khi tác giả hư cấu xây dựng nhân vật hàng tướng nhà Minh: Thái Phúc. Nguyễn Trãi chịu ơn Thái Phúc đã không hành hạ cha mình (Nguyễn Phi Khanh) khi bị giặc Minh giải lên ải Nam Quan. Rồi khi Thái Phúc bị quân Lam Sơn bắt, Nguyễn Trãi đã xin Lê Lợi tha cho y, dùng y dưới trướng, như một mưu sĩ ngoại giao. Câu nói “Tứ hải giai huynh”  ( lẽ ra phải là Tứ hải giai huynh đệ ),  mà tác giả “ Hội thề” gán vào miệng Nguyễn Trãi để cầu thân, tôn Thái Phúc là sư huynh, chính là gót chân Asin của tác phẩm, khiến Trần Hoài Dương cùng nhiều nhà văn và đông đảo bạn đọc không đồng tình. Tiếp đó là nét chấm phá về sự hào hoa, cao thượng của Tổng binh Vương Thông, tên cáo già xâm lược, với người thiếp Đông Quan (thực chất là gái bao), trước khi lui binh về nước, càng gây phản cảm, xoáy vào người đọc một lưỡi dao vô hình…
Có người cho rằng, Nguyễn Quang Thân viết vậy là có thâm ý muốn mượn xưa nói nay. Những “Thái Phúc và Vương Thông” hôm nay nhan nhản và  trịch thượng, xấc xược gấp mười lần xưa (!).
Dẫu sao vẫn tiếc cho nhà văn Nguyễn Quang Thân. Giá như ở những chương cuối của tác phẩm, ông lược bỏ vài trang hư cấu về nhân vật Thái Phúc, thì thiên tiểu thuyết thực sự toàn bích, xứng đáng là tác phẩm hàng đầu của giải.
Nhân cuộc thi này, xin nói thêm về tiểu thuyết “Nguyễn Thị Lộ” của nhà văn Hà Văn Thùy. Ở cuộc họp phiên áp chót của Ban chung khảo, số phiếu của tiểu thuyết này rất cao, có khả năng xếp hàng trên của giải. Quả thực, đây là tác phẩm tái dựng lại vụ án Lệ Chi viên với cách viết cuốn hút, bút lực dồi dào. Tác giả có khả năng dẫn dụ và mê hoặc người đọc. Nhưng rồi bỗng có một ý kiến phản bác, rằng tiểu thuyết này đã nhục mạ, hạ thấp phẩm giá và nhân cách Lễ nghi Học sỹ Nguyễn Thị Lộ. Mặc dù đáng tuổi mẹ vua, (hơn vua trên hai mươi tuổi, khác hẳn người chị của thi sỹ Hoàng Cầm trong Lá Diêu Bông, chỉ hơn Hoàng Cầm 8 tuổi), lại là vợ quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi, công trạng và danh vọng, uy tín ngất trời, vậy mà nhân vật Nguyễn Thị Lộ hiện lên như một người đàn bà tràn trề nhục dục, ngay từ cuộc giáp mặt đầu tiên với vị vua 17 tuổi Lê Thái Tông đã tỏ ra là một người không đoan chính. Rồi tác giả đẩy dần lên, gán cho mối quan hệ của Nguyễn Thị Lộ và Lê Thái Tông thành một cuộc ngoại tình vụng trộm đầy sắc dục và bệnh hoạn. Điên rồ đến mức, khi Nguyễn Thị Lộ về Côn Sơn với Nguyễn Trãi, trước ngày Vua Lê Thái Tông ghé thăm, bà chủ động ly thân, chỉ tơ tưởng đến người tình - vị vua đàng điếm trẻ tuổi. Cái chết của Lê Thái Tông là do Nguyễn Thị Lộ chủ động, truy hoan cuồng loạn tới mức ông vua trẻ tuổi …không sao hạ mã được (!)
Trong câu chuyện này, tác giả tiểu thuyết “ Nguyễn Thị Lộ” đã bắn một mũi tên mà giết hai nhân vật lịch sử và văn hóa lớn vào hàng bậc nhất nước Nam. Hóa ra Nguyễn Trãi bị cắm sừng từ lâu mà ông vẫn làm ngơ. Thương thay kẻ sỹ mọi thời(!)
Có một sai lầm nghiêm trọng trong việc tiếp cận nguồn sử liệu. Đó là tác giả Hà Văn Thùy chỉ dựa vào mấy dòng hạ bút của sử gia Ngô Sỹ Liên trong “Đại Việt sử ký toàn thư”:
“ Trước đây, vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người rất đẹp, văn chương rất hay, gọi vào cung phong làm Lễ nghi Học sỹ, ngày đêm hầu bên cạnh. Đến khi đi tuần miền đông, xa giá về tới vườn Vải, xã Đại Lại, ven sông Thiên Đức, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng, các quan bí mật đưa về.” Rồi lời bàn này của Sử gia mới ác độc: “Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái tông yêu nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được ư?”
 Ngô Sỹ Liên thì bị Hoàng Thái phi Nguyễn Thị Anh, bị quyền lực khống chế, ép viết, còn nhà văn Hà Văn Thùy thì bị nhà sử học Ngô Sỹ Liên đánh lừa.(!)
Rất may là Ban chung khảo cuộc thi tiểu thuyết 2008-2011 đã có thiên nhãn, không đưa tiểu thuyết “Nguyễn Thị Lộ” vào giải.

3. Vùng cấm của tiểu thuyết lịch sử cận đại?
 Nhiều người cho rằng, các nhà văn bây giờ thường né tránh đề tài đương đại để trốn vào lịch sử. Viết về những gai góc hiện thời, bị cắt bỏ, bị biên tập, thậm chí bị cấm phát hành, họ nản, mà viết nhạt nhẽo, vô hại thì độc giả quay lưng. Thôi thì viết về lịch sử là an toàn nhất. Có thể  các nhà văn đúng một phần. Mượn xưa nói nay, những gì mình không tiện nói thì nhờ người xưa nói giúp.
 Hiện trạng này cần đặt lên trên bàn các nhà công quyền quản lý văn học nghệ thuật và hoạch định chính sách phát triển văn hóa. Lâu nay chúng ta vẫn nói một cách trơn tru rằng không có vùng cấm đối với văn nghệ sỹ, rằng chân trời sáng tạo mở ra không cùng. Hãy nhớ lại câu thơ não lòng mà kỳ tài của thi sỹ Trần Dần: “Tôi khóc những chân trời không có người bay/ Lại khóc những người bay không có chân trời”(!)
          Nếu tôi là vua Tự Đức, chắc tôi cũng sẽ nọc thi hào Nguyến Du mà phạt mấy roi khi đọc đến những dòng thi hào viết về Từ Hải: “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”.Tự Đức là vua của thể chế, ông làm vậy vì muốn bảo vệ vương quyền, bảo vệ chế độ. Khi ấy ông tự loại mình khỏi Tổ quốc, khỏi Nhân dân, khỏi sự phát triển của văn hóa Việt.
Không ít nhà quản lý văn hóa đương đại của chúng ta cũng trải qua những thời khắc ứng sử với văn nghệ sỹ giống như vua Tự Đức. Thành thực mà nói, khi ấy họ là người đại diện cho quyền lực, cho thể chế.     Để đến khi “ hết quan hoàn dân” lại day dứt, tự vấn lương tâm một cách chân thành và đầy thân phận của kẻ sỹ:
 “ Còn tôi/ Trong cơn mưa lạnh cuối năm như vãi cát vào mặt/ Nhớ đến những thợ cày lực lưỡng đã đi xa/ Cúi xuống tờ giấy trắng trơ như cánh đồng sau vụ gặt/ Lòng quặn đau rằng đất không thể ở không/ Giấy phải làm ra chữ…” ( thơ Nguyễn Khoa Điềm).
Giấy phải làm ra chữ, nhưng chữ gì khi người viết cứ nơm nớp tự kiểm duyệt mình? Có nhà văn nào không tự vấn mình rằng, khi viết chúng ta đã tự hèn đi rất nhiều so với những điều chúng ta nghĩ? Đó là bi kịch có thật của các nhà văn theo đúng nghĩa của từ này. Nhiều cây bút đã chết khi chưa đi hết nghiệp văn. Nhà văn tài danh Nguyễn Minh Châu đã phải sớm viết lời ai điếu cho mình. Nhà văn lừng lẫy Nguyễn Khải đã  thở than não nùng trước khi nhắm mắt. Còn các nhà tiểu thuyết lịch sử, dẫu trốn vào quá khứ xa xăm thì anh vẫn không dấu nổi con người  hôm nay của mình.
 Lịch sử là gì, nếu không phải là ngày hôm qua? Nhà văn viết về đề tài lịch sử, có may mắn được sáng tạo trong một nội hàm rất rộng. Họ có thể viết từ thời đại Hùng Vương hay xa hơn nữa, tới những năm tháng chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ.
 Viết về những vấn đề, sự kiện, nhân vật lịch sử đã được bạch hóa, được vinh danh, không quá dễ dàng, nhưng cũng không thuộc mảng đề tài hấp dẫn của nhiều nhà văn. Nhà tiểu thuyết lịch sử có bản lĩnh thường muốn nhúng bút vào những khoảng tối, vùng mờ của lịch sử, nhất là lịch sử cận đại. Nhiều tác gia văn học lớn của thế giới đều thành công khi viết về lịch sử của thời đại mình, nơi những sự kiện, nhân vật của mình vừa đi qua, thậm chí mình từng được sống chung, được trải nghiệm, được đối mặt. Có thể nói rằng, những thập kỷ sau Cách mạng văn hóa, các nhà văn và các nhà quản lý văn hóa của Trung Quốc đã  mở ra một thời kỳ “Văn học vết thương”, “ Văn học tranh minh” rất thành công với hàng loạt tác phẩm của Trương Hiền Lượng, Giả Bình Ao, Mạc Ngôn, Thiết Ngưng, vv…
 Tiểu thuyết “ Thời của Thánh Thần” của tôi, có thể coi như tiểu thuyết lịch sử cận đại. Tôi muốn tái hiện lại một giai đoạn lịch sử của một gia đình, và cũng là của một vùng châu thổ sông Hồng hơn nửa thế kỷ, từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hôm nay. Có những vùng tối, khoảng mờ cần phục dựng lại. Người viết không tô hồng nhưng cũng không bôi đen lịch sử.
 Nhà văn Nguyễn Khắc Trường tác giả tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” sáng giá, Phó giám đốc, Tổng biên tập NXB Hội Nhà văn, người thay mặt nhà nước ký giấy phép cho đứa con tinh thần của tôi chào đời, đã nói với bạn bè trước khi bước vào cuộc họp Ban thẩm định tác phẩm “Thời của Thánh Thần” do Ban chấp hành Hội Nhà văn VN khóa VII lập ra: “Phải yêu nước lắm, mới viết như thế”. Nói điều này, nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã rất rạch ròi giữa Đất nước, Tổ quốc và thể chế, chính thể. Dường như ông đã tiếp cận được tư tưởng của nhà cải cách vĩ đại Nhật Bản Fukazawa Yukichi trước thời đại Minh Trị: “ Hãy coi trọng Quốc gia và coi nhẹ Chính phủ”. Nhân đây, tác giả xin nói lời cám ơn nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, người bằng lương tri nhà văn, trọng trách người đứng đầu Hội, đã ra sức bảo vệ cuốn tiểu thuyết “Thời của Thánh Thần” trước các cơ quan công quyền và bạn đọc.
          Cả một rừng báo chí im lặng dễ sợ khi “Thời của Thánh Thần” bị in lậu hàng vạn bản ngay sau khi ra đời. Vietnamnet có bài: “Thời của Thánh Thần, tiếng nổ của văn xuôi năm 2008?”, chỉ mấy tiếng sau liền bị gỡ xuống. Trên một trang Website chính thống khác, hai tuần sau có bài xếp “Thời của Thánh Thần”vào loại sách đen, giống như “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương (?) Và cho tới giờ cuốn sách vẫn không được phép tái bản, để mặc cho các đầu lậu phát hành hàng vạn bản sách lậu, biến dạng tác phẩm, vi phạm bản quyền, gây thiệt hại cho nhà xuất bản và tác giả, phương hại đến sự hưởng thụ văn hóa của người đọc.
 Có nên đặt ra câu hỏi: “Thời của Thánh Thần” đen như thế nào, và đen với ai? Đã vi phạm vùng cấm nào? Có nên để đông đảo các nhà chuyên môn và công chúng cùng được thảo luận sòng phẳng, phán xét công tâm, giống như chúng ta đã sám hối và đang ứng xử với các  tác giả và tác phẩm của Nhân văn Giai phẩm?     

2/9/2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét